Sau ly hôn, người chồng bị vợ đuổi ra khỏi nhà nên gửi đơn khởi kiện đòi lại nhà, đất được cho là tài sản thừa kế do cha mẹ để lại.
Sau ly hôn, người chồng bị vợ đuổi ra khỏi nhà nên gửi đơn khởi kiện đòi lại nhà, đất được cho là tài sản thừa kế do cha mẹ để lại.
Anh B.V.Đ. và chị N.T.T.L. cùng ở TX Bình Minh kết hôn năm 2002, có 2 con chung. Đến năm 2017, cuộc sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn không thể hàn gắn nên anh Đ. và chị L. thuận tình ly hôn. Chị L. được quyền nuôi 2 con, tài sản vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu tòa giải quyết.
Tuy nhiên, sau khi ly hôn thì anh Đ. và chị L. tiếp tục xảy ra mâu thuẫn trong việc giải quyết tài sản nên ngày 4/9/2018, anh Đ. gửi đơn khởi kiện yêu cầu chị L. trả lại nhà, đất. Theo lời anh Đ. trình bày: Thửa đất 510 diện tích 693,9m2 loại thổ vườn cùng căn nhà cấp 4 là tài sản cha mẹ anh Đ. để lại và anh là người thừa kế đã được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) từ năm 2011. Thời gian sống chung, anh Đ. có hùn làm ăn với bạn bè và vay tiền nhiều người. Do làm ăn thua lỗ, sợ chủ nợ lấy đất trừ nên ngày 5/3/2012, anh Đ. lập hợp đồng tặng cho toàn bộ nhà, đất cho chị L. Khi xảy ra bất hòa, vợ chồng thuận tình ly hôn và thỏa thuận tự chia tài sản nhưng sau khi ly hôn, anh Đ. nhiều lần yêu cầu chị L. giải quyết vấn đề tài sản chung và tài sản cha mẹ để lại thì chị L. không đồng ý mà còn đuổi anh ra khỏi nhà. Do đó, anh Đ. khởi kiện yêu cầu chị L. trả lại nhà, đất. Sau đó, tại phiên tòa sơ thẩm, anh Đ. thay đổi yêu cầu chỉ đòi chị L. chia đôi giá trị nhà, đất và xin nhận phần có nhà, vì đây là tài sản của cha mẹ và hiện anh Đ. cũng không có chỗ ở.
Chị L. không đồng ý chia đôi tài sản vì nhà, đất do chị mua hợp pháp từ anh Đ. và đã được cấp QSDĐ. Chị L. còn cho biết, trước năm 2012, anh Đ. không lo làm ăn, tối ngày cờ bạc, rượu chè dẫn đến thiếu nợ nhiều người. Anh Đ. đã bán nhiều thửa đất do cha mẹ để lại lấy tiền trả nợ và chỉ còn duy nhất thửa 510 nhưng cũng mang thế chấp ở ngân hàng. Chị L. nhiều lần đi trả tiền để nhận lại giấy chứng nhận QSDĐ nhưng anh Đ. vẫn không chí thú làm ăn, tiếp tục gây nợ. Do sợ anh Đ. sẽ bán luôn thửa đất 510, các con không còn chỗ ở nên chị L. thỏa thuận với anh Đ. mua lại nhà, đất để dành nhưng khi làm hợp đồng thì không ghi chuyển nhượng mà để tặng cho.
Từ lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn cùng các chứng cứ thu thập được, HĐXX nhận định: Nguồn gốc thửa đất 510 là của cha anh Đ. chết để lại và anh Đ. đã đứng tên trên giấy chứng nhận QSDĐ ngày 16/12/2011. Tuy nhiên, đến ngày 5/3/2012, anh Đ. đã làm hợp đồng tặng cho chị L. có xác nhận của UBND xã nên hợp đồng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ký. Sau đó, chị L. quản lý và sử dụng cho đến nay nên việc anh Đ. trình bày tặng cho nhà đất cho chị L. chỉ để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ là không có cơ sở.
Từ nhận định trên, HĐXX của TAND TX Bình Minh không công nhận thửa đất 510 và căn nhà gắn liền với đất là tài sản chung. Do tài sản tranh chấp không phải là tài sản chung nên yêu cầu đòi chia đôi nhà đất của anh Đ. không được chấp nhận và chị L. vẫn được quyền sử dụng thửa đất 510 cùng toàn bộ vật kiến trúc gắn liền trên đất là đúng quy định pháp luật.
DIỄM PHƯỢNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin