Cho rằng căn nhà tạm gia đình đang sử dụng cất trên đất công cộng nên bà N.T.L. (SN 1951, ở Phường 1- TP Vĩnh Long) yêu cầu bên khởi kiện bồi thường tiền và tặng lại 10m2 đất mới đồng ý di dời. Tuy nhiên, yêu cầu này đã bị bác ở cả 2 phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm.
Cho rằng căn nhà tạm gia đình đang sử dụng cất trên đất công cộng nên bà N.T.L. (SN 1951, ở Phường 1- TP Vĩnh Long) yêu cầu bên khởi kiện bồi thường tiền và tặng lại 10m2 đất mới đồng ý di dời. Tuy nhiên, yêu cầu này đã bị bác ở cả 2 phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm.
Trong đơn khởi kiện gửi TAND TP Vĩnh Long, chị T.N.N. trình bày: Ngày 29/5/2017, chị được cha ruột là ông T.N.S. tặng cho quyền sử dụng đất (QSDĐ) thửa 66 tọa lạc tại Phường 1 (TP Vĩnh Long).
Đây là đất cha chị được hưởng thừa kế từ bà nội, có thực hiện kê khai, đăng ký QSDĐ đúng quy định pháp luật. Năm 1998, bà N.T.L. (ở kế bên) có hỏi gia đình chị mượn phần đất này để che nhà tạm làm bếp nấu cơm.
Thấy nhà bà L. chật hẹp, còn đất của gia đình thì để trống nên chị N. đồng ý cho bà L. sử dụng nhờ thửa đất 66 xây nhà tạm. Đến tháng 7/2017, chị N. yêu cầu bà L. trả lại phần đất trên thì bà L. không đồng ý.
Tại biên bản hòa giải ngày 7/7/2017 của UBND Phường 1, bà L. yêu cầu chị N. bồi thường thành quả lao động san lấp, tu bổ phần đất thửa 66 nhưng chị N. không đồng ý nên đã khởi kiện ra tòa yêu cầu bà L. tháo dỡ căn nhà tạm và trả lại QSDĐ diện tích 29,1m2 thuộc thửa 66.
Tại đơn phản tố ngày 21/3/2018, bà L. không đồng ý yêu cầu khởi kiện của chị N. và cho rằng phần đất thửa 66 cách mặt tiền đường 30 Tháng 4 khoảng 55m nên không nằm trong phần nhà, đất ông S. được thừa kế.
Do đó, thủ tục nhận thừa kế từ mẹ ruột của ông S. là không đúng quy định pháp luật nên bà L. yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp cho hộ ông S. và hủy hợp đồng tặng cho QSDĐ từ ông S. cho chị N.; đồng thời yêu cầu UBND TP Vĩnh Long cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho bà đứng tên trên diện tích 29,1m2 đang tranh chấp.
Qua xem xét nội dung cùng các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, HĐXX của TAND TP Vĩnh Long đã tuyên không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà L. đồng thời buộc bà L. phải giao căn nhà tạm và trả lại cho chị N. QSDĐ diện tích 19,9m2 (đã cất nhà tạm) thuộc chiết thửa 66-1.
Chị N. có trách nhiệm thanh toán cho bà L. hơn 4,8 triệu đồng giá trị còn lại của căn nhà tạm. Không đồng ý với quyết định của tòa sơ thẩm, bà L. kháng cáo yêu cầu được đứng tên diện tích đất đang tranh chấp.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị N. tự nguyện hỗ trợ cho bà L. 10 triệu đồng để di dời căn nhà tạm.
Bà L. đồng ý nhận số tiền trên và trả lại đất với điều kiện chị N. phải cho bà 10m2 đất tại vị trí đang tranh chấp và hỗ trợ thêm 20 triệu đồng. Nếu chị N. không đồng ý thì bà vẫn bảo lưu yêu cầu kháng cáo ban đầu.
Theo nhận định của HĐXX, thửa đất số 66 diện tích 29,1m2 có nguồn gốc ông S. nhận thừa kế từ mẹ là cụ L.T.X. đã được UBND TP Vĩnh Long cấp giấy chứng nhận QSDĐ ngày 16/7/2015.
Đến ngày 29/5/2017, ông S. lập hợp đồng tặng cho con gái là chị N. và đã được chỉnh lý vào ngày 26/6/2017.
Tại Công văn 1249/UBND-NC ngày 25/6/2018 của UBND TP Vĩnh Long cũng xác định quá trình đăng ký kê khai QSDĐ thửa 66 của hộ ông S. qua các thời kỳ và việc cấp giấy chứng nhận cho hộ ông S. cũng như chỉnh lý đứng tên trang 3 cho chị N. là đúng quy định pháp luật, đúng vị trí, không sai lệch về diện tích.
Tại tòa, bà L. xác định phần đất tranh chấp tại thửa 66 không phải của bà mà là đất công cộng và bà đã sử dụng từ năm 1979 đến nay nhưng không kê khai đăng ký và không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận QSDĐ.
Trong khi cụ X. và ông S. không sử dụng phần đất này nhưng lại được kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Tuy nhiên, theo xác nhận của UBND Phường 1 thì bà L. được cấp giấy chứng nhận QSDĐ thửa 65 gắn với căn nhà số 47/13.
Có nghĩa là bà L. đã thực hiện QSDĐ tại thửa 65 nhưng không thực hiện kê khai, đăng ký QSDĐ thửa 66. Bà L. cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh gặp sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan để bản thân không thực hiện được việc kê khai, đăng ký QSDĐ thửa 66.
Do đó, việc UBND TP Vĩnh Long xác định thửa đất 66 cấp cho hộ ông S. là đúng quy định và ông S. đã tặng cho chị N. nên chị N. có đầy đủ các quyền của người sử dụng đất.
Từ những nhận định trên, HĐXX của TAND tỉnh Vĩnh Long tuyên không chấp nhận kháng cáo của bà L., buộc bà L. dỡ phần nhà tạm đã cất trên diện tích đất của chị N. thuộc chiết thửa 66-1; buộc chị N. thanh toán cho bà L. 10 triệu đồng di dời nhà tạm.
Mặc dù bà L. không đồng ý nhận số tiền này nhưng đây là sự tự nguyện không trái pháp luật của chị N. và có lợi cho bà L. nên được ghi nhận.
DIỄM PHƯỢNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin