Lúc vui vẻ, chị em thỏa thuận sử dụng chung căn nhà, đến khi bất hòa thì ai cũng muốn mình là người sở hữu đến nỗi phải nhờ tòa phân xử.
Lúc vui vẻ, chị em thỏa thuận sử dụng chung căn nhà, đến khi bất hòa thì ai cũng muốn mình là người sở hữu đến nỗi phải nhờ tòa phân xử.
Bà D.T.L. và ông D.C.N. (ở Phường 5- TP Vĩnh Long) là chị em ruột nhưng hơn 10 năm qua đã không còn nhìn mặt nhau chỉ vì căn nhà họ từng dày công vun đắp.
Theo đơn khởi kiện ngày 24/8/2010 của bà D.T.L.: Năm 2007, bà cho em ruột là ông D.C.N. ở tạm trong căn nhà cấp 4 gắn liền với quyền sử dụng đất (QSDĐ) diện tích 60,9m2 và có nói “khi nào cần thì lấy lại”.
Sau đó, gia đình bà gặp khó khăn về chỗ ở nên đòi lại nhà và đất thì ông N. không đồng ý. Từ đó, chị em phát sinh tranh chấp nên bà L. gửi đơn kiện với yêu cầu ngoài việc trả lại nhà, ông N. còn phải bồi hoàn giá trị nhà bị giảm sau thời gian sử dụng bằng 16 triệu đồng và tiền thuê nhà trong 108 tháng là 54 triệu đồng.
Có lẽ thấy yêu cầu trên là quá tuyệt tình nên sau đó, bà L. rút yêu cầu đòi tiền thuê nhà đối với ông N.
Tại phiên xử sơ thẩm ngày 28/3/2013, HĐXX của TAND TP Vĩnh Long đã tuyên ông N. được quyền sở hữu căn nhà cấp 4 gắn liền với đất và có trách nhiệm trả cho bà L. giá trị 60,9m2 đất cùng 1/2 căn nhà và bồi hoàn thiệt hại tổng cộng hơn 51,8 triệu đồng.
Tại phiên xử phúc thẩm, TAND tỉnh Vĩnh Long cũng tuyên ông N. được sử dụng nhà và đất trên nhưng số tiền phải hoàn trả cho bà L. tăng lên hơn 78,9 triệu đồng. Tuy nhiên, TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh đã có quyết định giám đốc thẩm hủy 2 bản án trên, giao hồ sơ cho TAND TP Vĩnh Long giải quyết lại từ đầu theo thủ tục sơ thẩm.
Quá trình giải quyết vụ việc, ông N. thừa nhận QSDĐ hiện do bà L. đứng tên nhưng bà L. đã chuyển nhượng cho ông 1/2 thửa đất này vào năm 2007 với giá 7 triệu đồng nên ông mới xây nhà để ở. Vừa qua, gia đình ông có được cấp một nền nhà ở khu tái định cư nhưng vì thiếu nợ nên đã bán để cấn trừ nợ. Hiện vợ chồng ông và 2 con nhỏ không còn chỗ ở nào khác nên mong muốn tòa công nhận cho gia đình ông được ở lại căn nhà trên.
Tại phiên xử sơ thẩm lần 2 vào ngày 7/8/2019, HĐXX của TAND TP Vĩnh Long tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L., công nhận QSDĐ và quyền sở hữu nhà gắn liền với đất là của vợ chồng bà L.; ông N. được trả lại 1/2 giá trị căn nhà hơn 36,2 triệu đồng nhưng phải bồi hoàn thiệt hại giá trị nhà bị giảm cho bà L. là 16 triệu đồng.
Không đồng ý với phán quyết trên, ông N. gửi đơn kháng cáo và ngày 9/3/2020, TAND tỉnh Vĩnh Long tiếp tục đưa vụ kiện ra xét xử phúc thẩm.
HĐXX cho rằng, ông N. khẳng định năm 2007, bà L. chuyển nhượng cho ông 1/2 diện tích đất giá 7 triệu đồng nhưng chỉ thỏa thuận miệng và ông cũng không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh nên HĐXX không có cơ sở xem xét.
Đối với căn nhà gắn liền với đất, bà L. và ông N. đều khai là người mua vật tư xây nhà nhưng tại biên bản hòa giải ngày 12/12/2008, cả 2 người thừa nhận là do chị em hùn tiền xây nên có căn cứ xác định đây là tài sản chung hợp nhất của bà L. và ông N. Riêng phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà L. nên việc bà L. yêu cầu ông N. trả lại là có căn cứ.
Đối với yêu cầu được sử dụng nhà và đất của ông N., căn cứ vào văn bản ngày 29/5/2018 của UBND TP Vĩnh Long thì hộ ông N. đã được cấp một nền nhà diện tích 100m2 tại khu tái định cư, hiện nơi này đã được cất nhà và người đứng tên chủ hộ là ông N.
Như vậy, có căn cứ xác định hộ ông N. đã có chỗ ở khác là căn nhà ở khu tái định cư. Về việc ông N. khai nhà và đất đó đã bán cho người khác để cấn trừ nợ, HĐXX xét thấy ông N. được cấp đất tái định cư theo dạng hộ cận nghèo và ông N. cũng thừa nhận Nhà nước có quy định đất được cấp hạn chế quyền chuyển nhượng, trong thời hạn 10 năm kể từ ngày bàn giao đất, nhà để ở thì người được cấp không được chuyển nhượng nên lời khai của ông N. “đã bán nhà trừ nợ nên không còn chỗ ở” là không có căn cứ chấp nhận.
Do đó, HĐXX của TAND tỉnh Vĩnh Long tuyên không chấp nhận kháng cáo của ông N. và công nhận QSDĐ diện tích 60,9m2 cùng căn nhà gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của vợ chồng bà L.; buộc vợ chồng ông N. và các con phải di dời với thời hạn lưu cư 2 tháng; vợ chồng bà L. có trách nhiệm hoàn trả cho ông N. 1/2 giá trị căn nhà hơn 36,2 triệu đồng nhưng ông N. phải bồi hoàn lại cho bà L. giá trị căn nhà bị giảm trong thời gian sử dụng là 16 triệu đồng.
Phiên tòa kết thúc, thắng thua đã định nhưng dù thắng hay thua thì người trong cuộc cũng không thể vui khi “máu thịt tình thâm” đã tan tác sau mỗi lần họ đối diện nhau tại pháp đình.
DIỄM PHƯỢNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin