Mua xe sử dụng được 4 tháng thì anh L.D.K. (ở TX An Khê- Gia Lai) bị cơ quan điều tra triệu tập và thu hồi xe do tài sản là tang vật trong một vụ án lừa đảo. Từ đó, tranh chấp về số tiền bồi thường thiệt hại giữa anh K. và người bán xe kéo dài suốt nhiều năm mới có hồi kết.
Mua xe sử dụng được 4 tháng thì anh L.D.K. (ở TX An Khê- Gia Lai) bị cơ quan điều tra triệu tập và thu hồi xe do tài sản là tang vật trong một vụ án lừa đảo. Từ đó, tranh chấp về số tiền bồi thường thiệt hại giữa anh K. và người bán xe kéo dài suốt nhiều năm mới có hồi kết.
Ngày 17/5/2011, anh L.D.K. và ông H.T.T. (ở TP Vĩnh Long) xác lập hợp đồng mua bán ô tô tải bằng giấy tay, không công chứng hay chứng thực với nội dung: Ông T. bán cho anh K. ô tô tải hiệu Asia, xe do bà N.T.C.T. (ở quận Ninh Kiều- TP Cần Thơ) đứng tên với giá 260 triệu đồng.
Anh K. chuyển khoản cho ông T. 240 triệu đồng, khi bên bán rút hồ sơ và chuyển vùng thì bên mua sẽ giao số tiền 20 triệu đồng còn lại. Tuy nhiên, sau khi chuyển 240 triệu đồng cho ông T., anh K. nhận xe sử dụng được 4 tháng thì Cơ quan điều tra Công an TP Cần Thơ có quyết định thu hồi xe.
Tại cơ quan điều tra, cả ông T. và anh K. đều ngỡ ngàng khi biết xe công an thu hồi là tang vật trong vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do N.C.Q. (tài xế- quê Cà Mau) thực hiện. Sau khi bán xe, Q. đã bỏ trốn và đang bị truy nã.
Do đó, anh K. và ông T. thỏa thuận 2 bên cùng chia sẻ thiệt hại và lập biên bản ngày 1/11/2011 với nội dung: Ông T. trả lại anh K. 140 triệu đồng, chia làm 2 lần vào các ngày 1/11 và 16/11/2011.
Do ông T. trả được 65 triệu đồng rồi ngưng không trả tiếp nên anh K. khởi kiện ra tòa yêu cầu ông T. trả 175 triệu đồng trong tổng số 240 triệu đồng đã thanh toán mua xe, không yêu cầu tính lãi.
Quá trình giải quyết vụ việc, ông T. trình bày: Ô tô tải do N.C.Q. gửi ông nhờ tìm người bán giúp. Ông không biết Q. lừa thuê xe của bà T. rồi đem đi bán nên đã giới thiệu cho anh K. mua để hưởng tiền môi giới.
Lúc Công an TP Cần Thơ mời làm việc, ông và anh K. có thỏa thuận 2 bên cùng chia sẻ thiệt hại và anh K. đồng ý chỉ nhận lại 140 triệu đồng. Do việc kinh doanh của gia đình không thuận lợi nên ông trả cho anh K. được 65 triệu đồng rồi ngưng đến giờ.
Nay ông không đồng ý trả tiếp 175 triệu đồng mà chỉ chấp nhận trả 75 triệu đồng cho đủ 140 triệu đồng như 2 bên đã thỏa thuận trong biên bản ngày 1/11/2011.
Được biết, ngày 17/9/2012, HĐXX của TAND TP Vĩnh Long đã tuyên án sơ thẩm buộc ông T. trả cho anh K. 175 triệu đồng nhưng sau đó, TAND tỉnh Vĩnh Long đã có quyết định hủy án do cấp sơ thẩm đưa thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tuyên vô hiệu hợp đồng mua bán xe nhưng chưa đề cập xử lý hậu quả khi hợp đồng vô hiệu.
Vậy là vụ việc được thụ lý, giải quyết lại từ đầu và kéo dài suốt nhiều năm mới được xử lý dứt điểm. Cụ thể, tại phiên xử sơ thẩm và phúc thẩm lần 2, HĐXX của cả 2 cấp đều nhận định: Ông T. thừa nhận có nhận của anh K. 240 triệu đồng bán ô tô nhưng xe này do bà T. đứng tên nên việc tuyên vô hiệu hợp đồng mua bán xe ngày 17/5/2011 giữa ông T. và anh K. là phù hợp pháp luật.
Đối với bản thỏa thuận anh K. đồng ý nhận lại 140 triệu đồng là thỏa thuận có điều kiện và quy định rõ ngày 1/11/2011, ông T. trả 70 triệu đồng, ngày 16/11/2011 trả tiếp 70 triệu đồng nhưng vì ông T. không thực hiện đúng quy định trên nên thỏa thuận này không còn hiệu lực.
Thực tế, ông T. có nhận của anh K. 240 triệu đồng thì phải có trách nhiệm trả lại số tiền trên. Do đó, bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều tuyên vô hiệu hợp đồng mua bán ô tô tải ngày 17/5/2011, buộc ông T. trả cho anh K. 175 triệu đồng.
Đồng thời dành cho ông T. vụ kiện khác với N.C.Q. về số tiền 240 triệu đồng bán xe mà ông đã môi giới và gánh chịu hậu quả cho đến tận bây giờ.
DIỄM PHƯỢNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin