Có thể do quen biết hay vì lý do nào đó, nhiều trường hợp chỉ thỏa thuận mua bán bằng miệng, không có bất cứ hợp đồng hay hóa đơn chứng từ nào, để khi phát sinh tranh chấp phải kéo nhau ra tòa, thì họ lại không cung cấp được chứng cứ.
Có thể do quen biết hay vì lý do nào đó, nhiều trường hợp chỉ thỏa thuận mua bán bằng miệng, không có bất cứ hợp đồng hay hóa đơn chứng từ nào, để khi phát sinh tranh chấp phải kéo nhau ra tòa, thì họ lại không cung cấp được chứng cứ.
Theo đơn kiện của ông Trần Văn Có (SN 1967, ngụ ấp Tân Phước, Tân Bình- Bình Tân), vào tháng 5/2012, ông có hợp đồng mua vật liệu xây dựng với ông Đỗ Văn Tuội (ngụ cùng địa phương). Do có quen biết từ trước nên cả hai chỉ hợp đồng miệng và để tạo lòng tin, ông Có luôn chủ động tạm ứng tiền trước mỗi lần giao dịch.
Cụ thể, ngày 4/5, giao 30 triệu đồng, ngày 11/5, giao 10 triệu đồng; ngày 12/6 giao 10 triệu đồng và ngày 19/6 giao 30 triệu đồng. Ngày 9/5, ông Tuội bắt đầu giao vật liệu cho ông Có, số vật liệu này có giá trị trên 51 triệu đồng. Ông Có yêu cầu ông Tuội trả lại phần tiền thừa nhưng ông Tuội không đồng ý nên ông đã làm đơn kiện ra tòa.
Tại tòa, ông Có cho biết, lúc giao tiền lần đầu (ngày 4/5) có nhờ em ruột là ông Trần Văn Thêm viết dùm hợp đồng mua bán, nhưng không ghi rõ ngày tháng. Các lần sau, ông Có chỉ ghi vào sổ tay để theo dõi chứ không làm bất cứ hợp đồng mua bán nào.
Ông Tuội xác nhận có hợp đồng miệng về việc cung ứng vật liệu xây dựng cho ông Có, tuy nhiên ông cho rằng, ông Có chỉ giao tiền cho ông 3 lần, tổng số là 60 triệu đồng, không phải 80 triệu đồng như trong đơn kiện của ông Có. Số vật liệu xây dựng mà ông đã giao cho ông Có có giá trị trên 51 triệu đồng, còn dư trên 8 triệu đồng, ông đã hoàn trả lại cho ông Có.
Sau khi căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh luận tại tòa, HĐXX xét thấy yêu cầu của ông Có là có căn cứ pháp lý để chấp nhận một phần, vì ông Có và ông Tuội đều thừa nhận vào tháng 5/2012 có hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng với nhau.
Tuy nhiên, ông Có cho rằng đã đưa cho ông Tuội 80 triệu đồng là không có căn cứ vì không có bất cứ giấy tờ nào chứng minh. Việc ông Tuội cho rằng đã trả lại trên 8 triệu đồng cho ông Có nhưng không làm biên nhận và không cung cấp được chứng cứ nên không có căn cứ xem xét.
Bên cạnh đó, ông Tuội thừa nhận đã nhận của ông Có 60 triệu đồng và hai ông đều thừa nhận giá trị vật liệu xây dựng mà ông Tuội đã giao cho ông Có là trên 51 triệu đồng, nên chỉ có căn cứ chứng minh là ông Có đã đưa cho ông Tuội 60 triệu đồng và giá trị vật liệu xây dựng mà ông Tuội đã giao là trên 51 triệu đồng.
Xét những chứng cứ trên, TAND huyện Bình Tân đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Có, buộc ông Tuội phải có nghĩa vụ trả cho ông Có trên 8 triệu đồng.
TRUNG HƯNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin