Luật Đất đai hiện hành không cho phép cầm cố quyền sử dụng đất. Do đó, khi phát sinh tranh chấp, tòa án không chấp nhận giao dịch cầm cố.
Luật Đất đai hiện hành không cho phép cầm cố quyền sử dụng đất. Do đó, khi phát sinh tranh chấp, tòa án không chấp nhận giao dịch cầm cố.
Trong đơn khởi kiện gửi TAND TX Bình Minh, anh N.T.H. đại diện cho 2 nông dân cùng ở ấp Thuận Thới (xã Thuận An) trình bày: Ngày 10/3/2009, bà N.T.T.M. ở cùng xã có làm giấy tay cố cho các anh 2.370m2 đất lúa (thửa 609) tọa lạc tại ấp Thuận Thới do bà M. đứng tên quyền sử dụng, giá 30 chỉ vàng 24K, thời gian cố 2 năm.
Do bà M. không có vàng chuộc lại đất nên theo thỏa thuận, các anh vẫn tiếp tục sử dụng thửa đất trên trồng cải xà lách xoong.
Tuy nhiên, ngày 23/12/2011, Chi cục Thi hành án dân sự Bình Minh bỗng dưng đến kê biên thửa đất trên để thi hành án cho vợ chồng ông V.T.P. ở ấp Thuận Tân A. Do đó, các anh cùng gửi đơn yêu cầu tòa buộc bà M. trả lại 30 chỉ vàng 24K thì các anh mới trả đất.
Tại bản khai ngày 30/3/2012, bà M. thừa nhận có ký giấy cố đất cho 3 nông dân ở ấp Thuận Thới. Bà đã nhận đủ vàng và giao đất cho các anh canh tác.
Do bà thiếu nợ vợ chồng ông P. nên cuối năm 2011, thửa đất trên bị kê biên để thi hành án. Nay bà đồng ý trả cho các nguyên đơn 30 chỉ vàng 24K được trích ra từ tiền bán đấu giá quyền sử dụng thửa đất 609.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vợ chồng ông P. trình bày: Việc cầm cố thửa đất 609 giữa bà M. với các nguyên đơn là không có thật.
Vì chỉ sau khi Chi cục Thi hành án dân sự Bình Minh tiến hành cưỡng chế các thửa đất của bà M. để thi hành án cho ông thì các nguyên đơn mới khởi kiện và đứng ra tranh chấp tài sản kê biên, gây khó khăn cho việc thi hành án.
Do việc cầm cố này là không có thật, gian dối từ đầu, các nguyên đơn thừa nhận có cố đất là hoàn toàn giả dối, văn bản cầm cố không tuân thủ theo quy định của pháp luật, không được công chứng hoặc chứng thực nên phải bị vô hiệu.
Được biết, Chi cục Thi hành án dân sự Bình Minh tiến hành kê biên tài sản của bà M. để đảm bảo thi hành án trả nợ cho vợ chồng ông P. theo Bản án số 163/2011/DS-ST ngày 4/8/2011 của TAND huyện Bình Minh (nay là TX Bình Minh).
Nay bản án trên đã bị hủy bởi Quyết định giám đốc thẩm số 23/2012/QĐ.GĐTDS ngày 30/3/2012 của TAND tỉnh Vĩnh Long nên Chi cục Thi hành án dân sự Bình Minh không có ý kiến trong việc tranh chấp trên.
Tại phiên tòa sơ thẩm, anh H. đại diện cho các nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu: Bà M. trả lại 30 chỉ vàng 24K, các anh sẽ tự di dời hoa màu, trụ lưới bao che trả lại đất trong thời gian 2 tháng. Nếu 2 bên trả vàng và trả đất cho nhau thì không có thiệt hại gì xảy ra.
Bà M. cũng đồng ý với yêu cầu trên, nếu bà không có vàng trả thì các nguyên đơn được tiếp tục canh tác thửa đất 609.
Luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho vợ chồng ông P. cũng yêu cầu HĐXX xem xét việc cơ quan thi hành án kê biên thửa đất 609 để thi hành án cho vợ chồng ông P. là đúng và chưa bị hủy bỏ.
Đề nghị tòa xác định việc cố đất giữa bà M. với các nguyên đơn là vô hiệu, nhưng không buộc bà M. phải trả vàng vì giữa nguyên đơn và bị đơn không có tranh chấp với nhau. Song đề nghị này không được HĐXX chấp nhận.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm tra tại tòa, HĐXX nhận định: Tại thời điểm nguyên đơn khởi kiện và tòa án thụ lý vụ án (ngày 2/3/2012) thì Bản án số 163/2011/DS-ST ngày 4/8/2011 của TAND huyện Bình Minh (nay là TX Bình Minh) vẫn đang có hiệu lực pháp luật.
Do vậy, Chi cục Thi hành án dân sự Bình Minh và vợ chồng ông P. được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 56 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc vợ chồng ông P. thay đổi yêu cầu bác đơn của nguyên đơn thành yêu cầu vô hiệu việc cố đất không vượt quá phạm vi yêu cầu độc lập ban đầu và phù hợp với Điều 106 Luật Đất đai hiện hành chưa cho phép cầm cố quyền sử dụng đất nên được chấp nhận.
Theo đó, HĐXX TAND TX Bình Minh tuyên vô hiệu tờ cố đất ngày 10/3/2009 giữa các nguyên đơn với bà M., buộc 2 bên trao trả đất và vàng cho nhau, thời gian di dời 2 tháng.
Riêng việc bà M. yêu cầu xin được trả vàng trích từ nguồn phát mãi thửa đất 609 tòa không đặt ra xem xét. Vì bà M. trả vàng như thế nào, từ nguồn kinh phí nào là trong giai đoạn thi hành án, không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
DIỄM PHƯỢNG
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin