Còn nhớ, tháng 7/2023, khi về viếng mộ người anh đang nằm lại tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Phước Long (Bạc Liêu), chúng tôi nghiêng mình thắp nén tâm hương trước mộ phần người liệt sĩ anh hùng Trần Hồng Dân ngay cạnh đài Tổ quốc ghi công.
Biết chúng tôi tới từ Trà Vinh, một người cháu của liệt sĩ Trần Hồng Dân vui mừng như gặp lại người thân, anh nói:
- Tôi nghe kể lại, gia tộc chúng tôi có nguồn cội từ vùng đất Dừa Đỏ bên đó!
Với chừng ấy thông tin mong manh và bất ngờ ấy, gần hai năm qua, với nhiều chuyến đi qua lại giữa Trà Vinh tới Phước Long, Hồng Dân (Bạc Liêu), Thạnh Trị, thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng), chúng tôi bước đầu lần ra được chặng đường xấp xỉ 200 cây số đường sông, trải gần 150 năm thăng trầm, đưa một gia đình bị truy đuổi xứ Nhị Long thành một gia tộc lẫy lừng trên vùng đất mới Phước Long, mà nhiều thành viên kiệt xuất của họ đã làm rạng danh dãy đất phương Nam Tổ quốc xa xôi này.
Dừa Đỏ là vùng đất trù phú, giàu truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh cách mạng, nằm giáp ranh giữa hai làng Long Thuận, Long Thạnh (sau nhập lại thành xã Nhị Long) thuộc huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh. Nhị Long là xã duy nhất của tỉnh Trà Vinh hai lần được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang cũng là vùng chôn nhau cắt rốn của các Anh hùng Lực lượng vũ trang Phạm Văn Lần, Trần Văn Bắc… và Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Ráo (Ba Thi). Tuy nhiên, ít ai biết, Dừa Đỏ còn là nơi khởi phát một gia tộc yêu nước lừng danh với nhiều nhân vật đặc biệt trong suốt thế kỷ XX đã làm rạng danh vùng đất phương Nam hào phóng, nghĩa tình mà kiên trung, bất khuất.
Câu chuyện bắt đầu từ thập niên 1860, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược miền Nam nước ta và ngay sau đó là cuộc khởi binh oai dũng của những nghĩa dân Vũng Liêm, Càng Long dưới ngọn cờ Nguyễn Giao - Lê Cẩn (1872 - 1873) với trận đánh Cầu Vông, lấy đầu viên tham biện Alix Salicetty. Những năm sau đó, thực dân Pháp liên tục tổ chức nhiều cuộc khủng bố, đàn áp khốc liệt ra những địa bàn hậu cứ cuộc khởi binh, mà hơn trăm năm sau vẫn còn những “đám giỗ hội” ở Cầu Suối (An Trường), Đầu Giồng (Bình Phú), Dừa Đỏ (Nhị Long). Lộ diện là chết mà trốn tránh mãi cũng không là kế sách hay, cuối thập niên 1880, một nghĩa binh họ Trần (không để lại tên theo đúng nghĩa thành ngữ “mai danh ẩn tích”) giao lại điền sản và mồ mả ông cha cho hai người con trai lớn lo liệu, rồi đưa vợ và sáu người con nhỏ (hai trai, bốn gái) nửa đêm xuống ghe, chèo đi biệt xứ.
Mấy tháng sau, gia đình này dừng chân ở vùng đất bưng trũng, hoang vu chưa dấu chân người, “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh như bánh canh”, buộc ghe vào cội tràm già, chằm lá dựng chòi, vung phảng phát rừng, khai hoang mở đất. Cả gia đình, lớn nhỏ đều lấy thứ làm tên mà thực tế cũng chẳng cần chi phân biệt tuổi tên giữa nơi đồng không mông quạnh, không một bóng người. Vài năm sau đó, Trần lão dang tay đón nhận thêm chàng thanh niên khỏe mạnh, giỏi giắn, nghe nói cũng từ Dừa Đỏ trôi dạt qua mà ông gán cho cái tên Ngô Văn Lượm. Lượm có nghĩa là nhặt được, mà đã nhặt được thì biết làm gì gia thế, tông chi, nguồn cội xuất thân.
Mấy chục năm sau, đất rừng đã thành đất ruộng. Thêm vài gia đình lần hồi tụ cư, xóm làng thêm đông đúc, trù phú. Rồi người Pháp cũng mò tới, dựng xã lập tề, đạc điền lập sổ. Vùng đất hoang vu nê địa ngày nào được tổ chức lại thành làng Mỹ Quới, quận Phước Long. Hồi mới thành hình, đất quá rộng bởi người quá thưa, một mình một cõi nằm trơ trọi trong hốc bà tó, cách xa các trung tâm tỉnh lỵ, xa các trục giao thông đường bộ, nguồn lợi bổng lộc chưa thấy đâu mà việc quản lý, đi lại của các quan đầu tỉnh quá khó khăn nên quận Phước Long ban đầu lệ vào hạt Rạch Giá, rồi được đẩy qua đẩy lại giữa Rạch Giá và Bạc Liêu, Cần Thơ và Sóc Trăng, có lúc lại thuộc vào tỉnh Chương Thiện. Sau nhiều lần điều chỉnh địa giới, quận Phước Long xưa bao gồm cả huyện Phước Long, huyện Hồng Dân thuộc tỉnh Bạc Liêu và một phần của huyện Thạnh Trị và thị xã Ngã Năm của tỉnh Sóc Trăng ngày nay.
Có làng, có xã tất có sổ bộ, mà quan trọng nhất là sổ nhơn bộ và sổ điền bộ song hành. Đã là con người, bất kể nam phụ lão ấu, phải có tên họ, tuổi tác ghi rõ ngọn ngành gốc tích trong sổ nhơn bộ và chỉ khi có tên trong sổ nhơn bộ mới được đứng chủ sở hữu ruộng vườn, đất đai trong sổ điền bộ. Bàn đi tính lại nhiều lần, cuối cùng Trần lão quyết định đặt lại cho người con gái thứ sáu cái tên mới là Trần Thị Khoa, giao đứng tên toàn bộ đất điền, phòng khi bị nhà đương cuộc phát hiện ra cánh đàn ông, con trai trong gia tộc vẫn còn tuổi tên trong sổ “tầm nã” bên quê nhà Dừa Đỏ thì biết đâu chừng, toàn bộ đất đai đổ mồ hôi sôi nước mắt mấy chục năm khai phá bị chánh quyền tịch biên, phát mại.
Nếu vợ chồng Trần lão và thế hệ thứ hai từ xứ Dừa Đỏ lưu lạc tới thì thế hệ thứ ba (cháu nội và cháu ngoại) sinh ra trong khoảng nửa cuối thập niên đầu đến nửa đầu thập niên thứ ba của thế kỷ XX, tức là giai đoạn ông bà bước vào tuổi năm mươi, sáu mươi, được coi là bậc trưởng thượng ở vùng đất mới, gia thế tài sản đã đề huề, ngày tư tết, giỗ chạp hay nhắc nhở cháu con nhớ về cội nguồn gia tộc. Riêng người con gái rượu là bà Sáu Khoa được gia đình Trần lão gả cho chàng trai Ngô Văn Lượm và họ lần lượt có tám người con. Ngoài người con trai thứ tư không may mất sớm khi chưa kịp đặt tên, còn lại là anh Hai Xuyến, chị Ba Vân, chị Năm Nho, anh Sáu Nghĩa, chị Bảy Ngỡi, chị Tám Nhơn và chị Chín Bưởi. Lạ một điều là ba anh con trai lo chí thú cuốc cày, miếng cơm manh áo thì những người con gái lại tiếp nối ý chí cha ông, chung vai gánh vác chuyện non sông đất nước.
Bà Năm - Ngô Thị Nho có chồng là ông Trần Văn Bảy, tên thường dùng là Bảy Xệ, vốn là một thanh niên Tây học, có mối quan hệ bạn bè thân thiết với nhà cách mạng Quản Trọng Hoàng. Ông Bảy Xệ giác ngộ lý tưởng Cộng sản, tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội từ những năm cuối thập niên 1920, rồi trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của tỉnh Rạch Giá và là Bí thư Chi bộ Mỹ Quới giai đoạn 1930 -1936, rồi Bí thư Quận ủy Phước Long những năm 1937 - 1938. Bà Năm Nho gánh vác công việc phong trào tại địa phương, phụ trách luôn công tác giao liên nhưng có lúc được điều về Sài Gòn để tránh sự truy bức của chính quyền thực dân.
Thế chiến thứ hai nổ ra, cuối năm 1939, nhà cách mạng Trần Văn Bảy được bổ sung vào Ban Thường vụ Liên Tỉnh ủy Hậu Giang và được điều về làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, rồi Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ, chuẩn bị cho cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ trên địa bàn trọng điểm Tây Đô nhưng không bao lâu sau ông bị thực dân Pháp bắt. Trải qua những đòn tra tấn dã man khắp các nhà tù Vĩnh Long, Cần Thơ, Sài Gòn… nhưng không khai thác được gì, thực dân Pháp đày ông ra địa ngục trần gian Côn Đảo với bản án chung thân khổ sai. Nhà cách mạng Trần Văn Bảy anh dũng hy sinh ngày 25/11/1941 tại Côn Đảo.
Sau năm 1954, bà Năm - Ngô Thị Nho tập kết ra Bắc, tiếp tục công tác tuyến cơ sở tại Hà Nội. Bà có ba người con đều thành đạt, trong đó có Giáo sư Tiến sĩ Trần Hồng Quân - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa VI, VII và VIII, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, rồi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (1990 - 1997).
![]() |
Bà Bảy - Ngô Thị Ngỡi sinh năm 1918, khi tham gia cách mạng lấy tên Ngô Thị Huệ để tránh liên lụy cho gia đình. Bà được người anh rể Trần Văn Bảy cùng nhà cách mạng Quản Trọng Hoàng giáo dục, giác ngộ từ rất sớm và năm 18 tuổi, đã đứng vào hàng ngũ của Đảng tại Chi bộ Mỹ Quới. Năm 1938, khi được điều về tham gia Tỉnh ủy Trà Vinh, bà Ngô Thị Huệ lần đầu tìm về nguồn cội quê cha đất tổ Nhị Long, Dừa Đỏ, sau đúng nửa thế kỷ từ khi ông bà ngoại mình nửa đêm xuống ghe, biệt xứ. Trong cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ, bà Ngô Thị Huệ là Phó Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long, rồi Ủy viên Liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Năm 1945, bà là Đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Bạc Liêu và được bầu làm đại biểu Quốc hội của tỉnh này. Trong cuộc kháng chiến chín năm, bà Bảy Huệ công tác ở Đoàn Phụ nữu Cứu quốc Nam bộ và kết hôn với nhà cách mạng Nguyễn Văn Cúc (Mười Cúc, từ năm 1957 ông lấy tên người con trai mới sinh làm bí danh - Nguyễn Văn Linh), một nhà lãnh đạo chủ chốt của Xứ ủy Nam Bộ và Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Cuộc hôn nhân lịch sử này được Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẩn và Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh Bạc Liêu Ung Văn Khiêm tác thành. Năm 1959, khi đang phụ trách Ban Phụ vận Sài Gòn - Chợ Lớn, bà Ngô Thị Huệ được điều ra Bắc, đảm nhiệm cương vị Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương cho đến ngày nghỉ hưu, năm 1986.
Riêng ông Nguyễn Văn Linh tiếp tục ở lại, lãnh đạo cuộc kháng chiến của quân dân miền Nam với nhiều trọng trách như Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy, rồi Quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (1957 - 1960)… Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, ông được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiệm kỳ 1986 - 1991. Trở thành “Đệ nhất phu nhân” nhưng giai đoạn này, bà Ngô Thị Huệ ít khi xuất hiện cùng ông trước công chúng, mà tập trung trí tuệ, công sức cùng quỹ thời gian ít ỏi còn lại tham gia nhiều hoạt động xã hội, nhiều công trình lịch sử Nam Bộ, lịch sử Phụ nữ Nam Bộ.
Bà Chín - Ngô Thị Bưởi sinh năm 1922, khi tham gia cách mạng lấy tên Ngô Duy Liên. Bà được các anh chị trong gia đình giáo dục giác ngộ từ rất sớm và được đứng vào hàng ngũ của Đảng tại Chi bộ Mỹ Quới khi tuổi mới mười sáu, rồi được điều về Sài Gòn - Chợ Lớn công tác thành. Sau năm 1945, bà Ngô Duy Liên trở về quê, phụ trách Đoàn Phụ nữ cứu quốc huyện Phước Long và kết hôn với ông Lê Văn Sĩ (tên thật Võ Sĩ), lúc này đang là Xứ ủy viên, Chính ủy Khu 8, sau trận Sa Đéc phải tạm lui về căn cứ Khu 9 ở Phước Long.
![]() |
Năm 1947, khi ông Lê Văn Sĩ được Xứ ủy chỉ định làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, bà Chín Liên cũng được điều về Sài Gòn, rồi làm Đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Bà Rịa. Năm 1948, ông Lê Văn Sĩ hy sinh, bà Ngô Duy Liên được điều trở về công tác tại Đoàn Phụ nữ tỉnh Bạc Liêu và kết hôn lần hai với ông Lê Hiến Mai (tên thật Nguyễn Văn Phường, còn có tên Dương Quốc Chính), một trong chín người được phong hàm Thiếu tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam và được Trung ương cử vào làm Tư lệnh Quân sự Nam Bộ, thay cho Trung tướng Nguyễn Bình.
Sau năm 1954, ông bà Lê Hiến Mai, Ngô Duy Liên tập kết ra Bắc. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, khóa IV, khóa V (1960 - 1986), lần lượt đảm nhiệm các chức vụ Thiếu tướng Chính ủy Bộ Tư lệnh Pháo binh, rồi làm Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Điện lực (1960 - 1963), Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp (1963-1965), Trung tướng Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm Giám đốc Học viện Chính trị quân sự (1965 - 1971), Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1971 - 1976), Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (1976-1982), Chủ nhiệm Ủy ban Y tế và Xã hội của Quốc hội (1982 - 1986). Ở miền Bắc, bà Ngô Duy Liên là Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Xí nghiệp Dược Trung ương.
Cũng thuộc thế hệ thứ ba sanh ra và lớn lên tại vùng đất mới Phước Long còn một nhân vật kiệt xuất, mà sự nghiệp, chiến công và tên tuổi được ghi lại đậm nét trên các trang sử địa phương là ông Trần Văn Thành.
Ông Thành sinh năm 1916, là con của người anh trai thứ năm của bà Sáu Khoa, nghĩa là ông Thành với chị em bà Ngô Thị Huệ là anh em cô cậu ruột. Sanh ra trong gia tộc có truyền thống yêu nước, ông Trần Văn Thành được hai nhà cách mạng Quản Trọng Hoàng và Trần Văn Bảy quan tâm giáo dục, giác ngộ từ tuổi thiếu niên và được kết nạp vào Đảng năm 1936, tại Chi bộ Mỹ Quới, cùng với bà Ngô Thị Huệ. Cuối năm đó, khi ông Trần Văn Bảy được rút lên làm Bí thư Quận ủy Phước Long thì ông Trần Văn Thành kế nhiệm Bí thư Chi bộ Mỹ Quới, với bí danh Trần Hồng Dân. Sau Nam kỳ khởi nghĩa, tháng 02/1941, ông Trần Hồng Dân được Liên Tỉnh ủy Hậu Giang chỉ định bổ sung Ban Thường vụ Tỉnh ủy, trực tiếp làm Bí thư Thị ủy Cần Thơ để củng cố lại tổ chức và phong trào. Tuy nhiên, không bao lâu sau, ông bị thực dân Pháp bắt, rồi đày ra nhà tù Côn Đảo với bản án chung thân khổ sai.
Cuộc Khởi nghĩa tháng Tám thành công, cùng với những người tù chính trị khác, ông Trần Hồng Dân được Xứ ủy tổ chức rước về đất liền. Cuối năm 1945, ông được bổ sung Ban Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá, trực tiếp làm Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh huyện Phước Long, cùng quân dân trong huyện xây dựng khu căn cứ Phước Long - Thới Bình rộng lớn và hiểm trở, làm nơi đứng chân của Xứ ủy Nam bộ cùng Khu ủy khu Tây Nam Bộ. Tháng 6/1946, thực dân Pháp tổ chức trận càn quét qui mô lớn vào vùng Ninh Thạnh Lợi, phát hiện ông đang bám lại theo dõi tình hình. Tuy chỉ một mình trước một trung đội địch, ông Trần Hồng Dân vẫn dũng cảm bám địa bàn chiến đấu, diệt nhiều địch, trong đó có ba hạ sĩ quan người Pháp. Cuối cùng, khi bị thương nặng và súng hết đạn, ông Trần Hồng Dân bị địch bắt và bắn chết tại chỗ. Điên cuồng trước sự dũng cảm của người Bí thư Huyện ủy trẻ tuổi, kẻ thù đã man rợ dùng dao xắt chuối phân xác ông thành ba đoạn, mang vứt ở ba nơi.
Thương tiếc và kính phục tấm gương hy sinh dũng liệt của người Bí thư tiền nhiệm, đầu năm 1947, khi được Tỉnh ủy Rạch Giá điều về làm Bí thư Huyện ủy Phước Long, ông Võ Văn Kiệt đã đề nghị Ủy ban Kháng chiến Hành chánh khu Tây Nam Bộ đặt lại tên huyện Phước Long là huyện Hồng Dân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nam Bộ, tên một liệt sĩ Cộng sản được chính thức thành tên một huyện, tạo tiền lệ cho các huyện mang tên những người anh hùng Ngọc Hiển, Trần Văn Thời (tỉnh Cà Mau) sau này.
Lịch sử vốn luôn công bằng. Gia tộc Trần - Ngô Phước Long, với những cống hiến phi thường vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, làm rạng danh vùng đất phương Nam Tổ quốc đã được lịch sử ghi nhận một cách trân trọng. Những mất mát, hy sinh vô cùng to lớn của họ cũng đã được đền đáp xứng đáng. Ngày 01/12/2014, hai thành viên của gia tộc này vinh dự được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là liệt sĩ Trần Văn Bảy và liệt sĩ Trần Hồng Dân. Những năm sau đó, gia tộc này lại có hai người phụ nữ là chị em ruột nhận Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng là bà Ngô Thị Huệ (2015, đến 2020 bà nhận Huy hiệu 85 năm tuổi Đảng) và bà Ngô Duy Liên (2018).
Những vinh dự kép ấy, có thể nói, không một gia tộc, không một địa phương nào khác trên cả nước có được.
Theo Trần Dũng/ Báo Trà Vinh
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin