Sau dấu mốc hợp nhất tỉnh, Vĩnh Long đang đứng trước cơ hội định hình lại chiến lược phát triển. Tại Kỳ họp thứ ba HĐND tỉnh khóa X, chiều 9/12 đại biểu Vũ Thanh Hải tham gia phát biểu thảo luận những vấn đề cốt lõi về phát triển doanh nghiệp (DN) và chuyển đổi hộ kinh doanh (HKD)- yếu tố then chốt để khai phá dư địa tăng trưởng mới.
![]() |
| Đại biểu Vũ Thanh Hải phát biểu tại Kỳ họp thư ba HĐND tỉnh khoá X. |
Bối cảnh mới – yêu cầu mới cho phát triển
Kinh tế tư nhân từ lâu đã được xác định là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Nghị quyết số 68-NQ/TW (4/5/2025) của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định rõ vai trò của khu vực tư nhân đối với sự phát triển của cả nước nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng. Trong bối cảnh tỉnh mới sau hợp nhất, yêu cầu đặt ra cho phát triển DN và thúc đẩy chuyển HKD lên DN càng cấp bách hơn để hình thành động lực tăng trưởng mới.
Ngày 1/7/2025- một dấu mốc lịch sử đã mở ra: ba tỉnh Bến Tre, Trà Vinh và Vĩnh Long chính thức hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Long mới. Với diện tích hơn 6.200 km², dân số hơn 3,3 triệu người cùng 124 xã, phường, không gian phát triển rộng mở gấp nhiều lần trước đây.
Quyết định chiến lược này không chỉ là sắp xếp địa giới hành chính mà còn khởi đầu cho một mô hình phát triển mới, hiện đại hơn về tư duy, hiệu quả hơn về tổ chức, sâu sắc hơn về liên kết vùng và mạnh mẽ hơn về năng lực cạnh tranh.
Vĩnh Long mới đứng trước cơ hội hiếm có để định vị lại chiến lược phát triển. Đó cũng là lúc chính quyền, DN và người dân chung tay kiến tạo một “hình hài” mới – một vùng đất vừa giữ được bản sắc, vừa vươn lên trong kỷ nguyên chuyển đổi số, kinh tế xanh và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc phát triển DN và thúc đẩy chuyển HKD lên DN cần được xác định là một trong những trụ cột quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững trong giai đoạn tới.
Kết quả đạt được và điểm nghẽn cần tháo gỡ
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 138/NQ-CP của Chính phủ về Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04 tháng 5 năm 2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết số 139/NQ-CP của Chính phủ về Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17 tháng 5 năm 2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, tỉnh Vĩnh Long cũng đã ban hành Kế hoạch số 06/KH-UBND ngày 23/7/2025 thực hiện Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 16/5/2025 và Kế hoạch số 07/KH-UBND ngày 23/7/2025 thực hiện Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ.
Đồng thời, để việc triển khai đạt hiệu quả, trên cơ sở kế hoạch của UBND tỉnh, các sở, ban, ngành và UBND các xã, phường đã khẩn trương rà soát, xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ được giao, thể hiện tinh thần chủ động, trách nhiệm và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị trong việc đưa Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị vào cuộc sống.
Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt và triển khai đồng bộ, khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh tiếp tục có bước phát triển tích cực, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế – xã hội. Số DN phát triển mới trên địa bàn tỉnh từ ngày 1/1/2025 đến ngày 20/10/2025 là 2.410 DN, đạt 147,85% so với kế hoạch (kế hoạch phát triển mới năm 2025 là 1.630 DN). Tính đến ngày 20/10/2025, toàn tỉnh có 12.278 DN đang hoạt động với tổng vốn đăng ký 197.886 tỷ đồng, tạo việc làm cho 293.821 lao động và đóng góp hơn 67% GRDP của tỉnh. Cùng với đó, có trên 97 nghìn HKD cá thể hoạt động sôi nổi trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là thương mại, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp.
Việc phát triển DN và thúc đẩy chuyển HKD lên DN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
Thứ nhất, giúp nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách bền vững hơn, thông qua việc minh bạch hóa hoạt động sản xuất – kinh doanh, mở rộng cơ sở thuế, giảm tình trạng kinh tế phi chính thức.
Thứ hai, tạo điều kiện để chính các HKD nâng cao sức cạnh tranh. Khi trở thành DN, họ có điều kiện tiếp cận tín dụng chính thức, tham gia các chuỗi cung ứng, mở rộng quy mô, ứng dụng khoa học, công nghệ và từng bước chuẩn hóa quản trị.
Thứ ba, góp phần giảm dần khu vực kinh tế phi chính thức, xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, lành mạnh hơn giữa các chủ thể.
Thứ tư, tạo thêm việc làm, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy quá trình chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn.
Thứ năm, tạo ra một “làn sóng DN mới” phù hợp với quy mô và không gian phát triển của tỉnh sau hợp nhất; từ đó, hình thành lực lượng DN đủ mạnh để khai thác lợi thế của ba vùng kinh tế.
Tuy nhiên, với quy mô và lợi thế hiện có sau khi nhập tỉnh, thì con số trên vẫn chưa thực sự ấn tượng. Về DN, trong số hơn 12 ngàn DN đang hoạt động trên địa bàn tỉnh, có hơn 80% là DN nhỏ và vừa và DN siêu nhỏ. Và trong hàng chục ngàn HKD thì phần lớn vẫn đang ở quy mô nhỏ, phân tán, tiềm năng chưa được khai thác đầy đủ. Bên cạnh những kết quả tích cực bước đầu, khu vực DN và kinh tế tư nhân của tỉnh vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức:
Một là, phần lớn DN có quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính, công nghệ và quản trị còn hạn chế; khả năng tham gia sâu vào các chuỗi giá trị liên vùng, liên ngành, nhất là cạnh tranh ở tầm khu vực và quốc tế, còn khiêm tốn.
Hai là, mặc dù tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, hỗ trợ DN và HKD nhưng hiệu quả chưa cao. Nguồn lực ngân sách dành cho hỗ trợ còn hạn hẹp; một số quy định, hướng dẫn chưa thật sự rõ ràng, dễ hiểu; quy trình tiếp cận chính sách còn phức tạp, khiến nhiều DN và HKD khó tiếp cận các ưu đãi.
Ba là, một số thủ tục vẫn còn chậm trễ, nhất là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng; thời gian giải quyết hồ sơ ở một số khâu, một số địa bàn còn kéo dài, phát sinh thêm chi phí về thời gian và cơ hội cho DN.
Bốn là, ở một số xã vẫn thiếu công chức chuyên môn ở các lĩnh vực như tài chính- kế toán, tư pháp- hộ tịch, kinh tế; điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, tiến độ giải quyết thủ tục cho người dân và DN. Một bộ phận cán bộ, công chức và một số địa phương chưa thật sự chủ động theo dõi, nắm bắt và hỗ trợ kịp thời khó khăn, vướng mắc của DN.
Năm là, trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn chế, nhu cầu đầu tư cho kết cấu hạ tầng, cho chuyển đổi số, cho phát triển các khu, cụm công nghiệp, hạ tầng logistics là rất lớn. Việc huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển tuy đã được quan tâm nhưng chưa tương xứng với tiềm năng.
Giải pháp thúc đẩy DN trong giai đoạn mới
Phát triển DN không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành Kế hoạch- đầu tư hay ngành Công Thương, mà là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Để tháo gỡ khó khăn, phát huy tối đa vai trò động lực của DN và khu vực kinh tế tư nhân, trong thời gian tới tỉnh cần tập trung một số nhóm giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ DN và HKD theo hướng rõ ràng, minh bạch, khả thi và dễ tiếp cận hơn. Ưu tiên các chính sách về tín dụng, mặt bằng sản xuất, hỗ trợ chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp; bảo đảm các cơ chế, chính sách ban hành thực sự đi vào cuộc sống.
Thứ hai, cải thiện mạnh mẽ hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh; đẩy nhanh cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng. Tăng cường phân cấp, ủy quyền hợp lý; rút ngắn thời gian, công khai, minh bạch quy trình xử lý hồ sơ, ứng dụng hiệu quả dịch vụ công trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN và người dân.
Thứ ba, phát triển DN theo 3 vùng kinh tế với 3 trụ cột chính là: Nông nghiệp- chế biến (tại Bến Tre cũ); Công nghiệp- logistics- năng lượng (tại Trà Vinh cũ) và Đô thị- thương mại- dịch vụ- giáo dục (tại Vĩnh Long cũ), nhằm khai thác thế mạnh riêng biệt của từng địa bàn trước kia, không để bị mai một. Theo đó, cần điều chỉnh quy hoạch tỉnh để phục vụ hiệu quả các trụ cột kinh tế này. Đồng thời, cũng cần xem xét đưa các sở ngành về địa phương cũ để phục vụ người dân, DN sâu hơn, sát hơn.
Thứ tư, phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị- xã hội trong phát triển DN và thúc đẩy phong trào khởi nghiệp, gắn với lợi thế tự nhiên và truyền thống của từng vùng sau hợp nhất.
Thứ năm, nâng cao trách nhiệm và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là ở cơ sở. Cần coi công tác hỗ trợ, đồng hành cùng DN là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, gắn với trách nhiệm người đứng đầu. Kịp thời biểu dương những tập thể, cá nhân làm tốt; đồng thời chấn chỉnh, xử lý các trường hợp gây phiền hà, nhũng nhiễu, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh của tỉnh.
Thứ sáu, đẩy mạnh huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, nhất là trong lĩnh vực hạ tầng khu, cụm công nghiệp, hạ tầng logistics, hạ tầng số và các công trình thiết yếu phục vụ sản xuất – kinh doanh. Xây dựng cơ chế, chính sách hợp lý, công khai, minh bạch, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người dân, qua đó tạo niềm tin cho các thành phần kinh tế yên tâm đầu tư lâu dài.
Thứ bảy, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp và phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Có chương trình, đề án cụ thể hỗ trợ HKD chuyển đổi lên DN; hỗ trợ về thông tin, đào tạo quản trị, kế toán, kết nối thị trường; khuyến khích hình thành các mô hình DN khởi nghiệp sáng tạo, DN gắn với chuỗi giá trị nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ của ba vùng kinh tế.
Thứ tám, xóa tâm lý “ngại chuyển đổi” của HKD. Thực tế cho thấy nhiều HKD vẫn còn tâm lý e ngại khi chuyển đổi, do đó cần tổ chức tốt việc tư vấn, tuyên truyền và hỗ trợ chuyển đổi HKD lên DN thông qua các tổ, bộ phận hỗ trợ tại địa phương; thiết lập các kênh thông tin, đường dây nóng, trang thông tin điện tử để giải đáp vướng mắc, hướng dẫn thủ tục cho DN và HKD một cách kịp thời, thuận tiện. Đồng thời cần có cơ chế chính sách đặc thù của tỉnh để khuyến khích HKD lên DN.
Thứ chín, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân, DN và đội ngũ cán bộ, công chức về vai trò của kinh tế tư nhân và ý nghĩa của việc chuyển đổi HKD lên DN. Kịp thời giới thiệu, nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến, các câu chuyện thành công để tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực trong xã hội.
Tỉnh Vĩnh Long sau hợp nhất có không gian rộng hơn, cơ hội lớn hơn nhưng cũng đòi hỏi một động lực tăng trưởng mới mạnh mẽ hơn. DN- đặc biệt là DN hình thành từ HKD- chính là động lực đó. Làm tốt chuyển đổi HKD lên DN nghĩa là tăng thu ngân sách bền vững, tăng sức cạnh tranh của tỉnh, tăng năng suất lao động, tăng quy mô kinh tế và tăng niềm tin của người dân- DN vào chính quyền.
Do đó, cần đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng của cả hệ thống chính trị, các thành phần kinh tế và Nhân dân, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân. Đây là nhiệm vụ then chốt để tỉnh bứt phá trong giai đoạn phát triển mới.
| Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đã đưa ra mục tiêu phấn đấu tăng trưởng GRDP từ 10% trở lên, để đạt được mục tiêu này, không thể không có sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân, cụ thể là DN và HKD. |
VŨ THANH HẢI



Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin