Khơi thông “điểm nghẽn” để phát triển doanh nghiệp tư nhân

06:18, 18/12/2025

Tại buổi tọa đàm “Phát triển doanh nghiệp tư nhân (DNTN) khu vực ĐBSCL theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW” do Học viện Chính trị khu vực IV phối hợp Trường Chính trị TP Cần Thơ tổ chức, ý kiến chuyên gia cho rằng, muốn DNTN phát triển mạnh mẽ, cần tiếp tục xử lý các “điểm nghẽn” về thể chế, giảm chi phí tuân thủ, thu hẹp khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn.

Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Ảnh: TRUNG HIẾU
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Ảnh: TRUNG HIẾU

Còn nhiều thách thức

TS Nguyễn Thị Tuyết Loan- Hiệu trưởng Trường Chính trị TP Cần Thơ nhấn mạnh, kinh tế tư nhân (KTTN) nước ta đã phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP, ngân sách nhà nước, tạo việc làm và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Khu vực này hiện chiếm hơn 50% GDP, đóng góp hơn 30% ngân sách, tạo việc làm cho hơn 43,5 triệu lao động (chiếm 82% tổng lao động có việc làm) và chiếm khoảng 56% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2024.

“Những thành tựu này khẳng định tính đúng đắn và sự phát triển nhất quán trong tư duy của Đảng về vai trò của KTTN- từ chỗ là thành phần “bị hạn chế”, đến việc được xác định là “một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”- bà Tuyết Loan khẳng định.

Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển KTTN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khẳng định KTTN là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.

Đồng thời yêu cầu đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế, khơi dậy tinh thần doanh nhân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.

Đối với vùng ĐBSCL, bên cạnh những tiềm năng lớn về nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến, logistics, năng lượng tái tạo và du lịch sinh thái, khu vực đang đối mặt với nhiều thách thức.

“Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, đặc biệt giao thông và logistics; biến đổi khí hậu diễn biến hết sức phức tạp; trình độ công nghệ của doanh nghiệp (DN) còn thấp; năng lực quản trị, liên kết chuỗi giá trị còn yếu; quy mô DN nhỏ và siêu nhỏ chiếm đa số; thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao... Những hạn chế này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và sức cạnh tranh của DN trong vùng”- bà Tuyết Loan cho biết.

Trong khi đó, theo TS Huỳnh Thanh Hiếu- Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị TP Cần Thơ, số lượng DN của vùng ĐBSCL không ngừng gia tăng.

Tuy nhiên tỷ trọng so với cả nước thì còn khiêm tốn (khoảng 7,4%), năm 2024 cả nước có gần 940.100 DN, trong đó vùng ĐBSCL có gần 70.700 DN. Về mật độ, DN vùng ĐBSCL hiện có khoảng 3,2 DN/1.000 dân, thấp hơn đáng kể so với vùng Đồng bằng sông Hồng (10,5 DN/1.000 dân), Đông Nam Bộ (17,5 DN/1.000 dân).

Theo ông Hiếu, mặc dù DN của ĐBSCL có những bước phát triển nhất định, song việc gia tăng số lượng, đặc biệt là các công ty TNHH và DN siêu nhỏ những năm gần đây chủ yếu chuyển đổi mang tính hình thức từ các hộ kinh doanh cá thể. Điều này dẫn đến tình trạng “nở rộ” về số lượng nhưng lại thiếu chiều sâu và tính bền vững trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các DN ở ĐBSCL thường gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức. Sự thiếu hụt vốn trực tiếp cản trở việc mở rộng quy mô, nghiêm trọng hơn là việc ứng dụng các tiến bộ khoa học- công nghệ mới vào quy trình sản xuất. Điều này khiến năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của khu vực vẫn còn ở mức thấp.

Theo TS Trần Hữu Hiệp- Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch ĐBSCL, các số liệu thống kê cho thấy, có khoảng 98% DN ở ĐBSCL là DN nhỏ và siêu nhỏ, thiếu nền tảng quản trị, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu dữ liệu thị trường và khả năng kết nối vùng, quốc gia, quốc tế.

Môi trường kinh doanh tại ĐBSCL cũng đối mặt thách thức từ sự phân mảnh về thể chế với quy hoạch chồng chéo, liên kết vùng yếu kém.

Sự khác biệt trong chính sách giữa các địa phương và thủ tục hành chính còn rườm rà cũng tạo ra rào cản. “Việc khắc phục những điểm nghẽn thể chế là cần thiết để KTTN thực sự trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, như tinh thần Nghị quyết số 68 đề ra”- ông Hiệp nhận định.

Tháo gỡ “điểm nghẽn”

Nhiều chuyên gia, học giả khẳng định, Nghị quyết số 68 vô cùng quan trọng, góp phần tháo gỡ nhiều nút thắt trong phát triển KTTN. Để DNTN ở ĐBSCL phát triển mạnh mẽ, cần tiếp tục xử lý các điểm nghẽn về thể chế, giảm chi phí tuân thủ, thu hẹp khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn.

Đồng thời đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khuyến khích DN đổi mới công nghệ, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng toàn cầu.

Năm 2024 cả nước có gần 940.100 doanh nghiệp, trong đó vùng ĐBSCL chỉ có gần 70.700 doanh nghiệp.
Năm 2024 cả nước có gần 940.100 doanh nghiệp, trong đó vùng ĐBSCL chỉ có gần 70.700 doanh nghiệp.

Bà Lý Thị Hồng An- Học viện Chính trị khu vực IV cho rằng, sự phát triển DN ở ĐBSCL chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng.

Nếu không tháo gỡ căn cơ những điểm nghẽn trên, DN ĐBSCL khó có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, khó tận dụng các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế và càng khó thích ứng với các yêu cầu tiêu chuẩn xanh, số hóa và đổi mới công nghệ...

Để thúc đẩy DN phát triển mạnh mẽ và bền vững, cần sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, DN và hệ thống các chủ thể trong nền kinh tế vùng...

Ông Trần Hoàng Minh- Giám đốc Công ty TNHH Xúc tiến thương mại và Tư vấn đầu tư S-Global cho biết, DN mong muốn ngành quản lý hoàn thiện nhanh khung pháp lý về dữ liệu, số hóa thủ tục hành chính công; hoàn thiện cơ chế hỗ trợ tài chính trực tiếp và linh hoạt, đặc biệt là xây dựng Quỹ Hỗ trợ chuyển đổi số cho DNTN…

Theo TS Trần Hữu Hiệp- Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch ĐBSCL: Giải pháp cốt lõi là cần thể chế hóa mạnh mẽ vai trò của hiệp hội bằng các quy định pháp lý cụ thể. Cần quy định rõ quyền tham gia phản biện chính sách của hiệp hội đối với các dự thảo luật, quy hoạch và nghị quyết. Quan trọng hơn, Nhà nước cần thay đổi cách nhìn, xem hiệp hội là đối tác chiến lược trong quá trình hoạch định chính sách, chứ không chỉ là một tổ chức đại diện đơn thuần.

Theo TS Lê Quang Vinh- Trưởng Khoa Xây dựng Đảng (Trường Chính trị Tôn Đức Thắng), ĐBSCL cần tận dụng Nghị quyết số 68 để vượt qua các hạn chế cố hữu về quy mô DN, hạ tầng và liên kết vùng.

Để vượt qua những trở ngại đó, các tỉnh, thành trong khu vực cần cải thiện môi trường đầu tư và chỉ số PCI khẩn cấp; thu hút đầu tư, tạo môi trường màu mỡ để thu hút “sếu đầu đàn”; dần hình thành cơ chế đặc thù riêng của các tỉnh, thành vùng ĐBSCL.

Đặc biệt là xây dựng cơ chế ưu đãi vượt trội (về miễn giảm tiền thuê đất, hỗ trợ R&D) để thu hút các tập đoàn tư nhân lớn (chế biến lúa gạo, trái cây, thủy sản,…) đầu tư vào các trung tâm chế biến và logistics cấp vùng.

“Đối với ĐBSCL, việc vận dụng Nghị quyết số 68 là cơ hội vàng để tháo gỡ nút thắt về thể chế và vốn. Gợi mở quan trọng là quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư; thu hút “sếu đầu đàn”, phát triển nguồn nhân lực.

Nhờ đó, ĐBSCL có cơ sở để xây dựng một hệ sinh thái kinh tế xanh, hiện đại do khu vực tư nhân dẫn dắt.”- TS Lê Quang Vinh chia sẻ.

Bài, ảnh: KHÁNH DUY
 

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh