Sáng 5/12, tham gia phát biểu thảo luận tại hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) về nông thôn mới (NTM), giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035, đại biểu Thạch Phước Bình- Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long nhấn mạnh cần điều chỉnh mục tiêu, tăng ngân sách Trung ương để đảm bảo hiệu quả Chương trình này.
![]() |
| Đại biểu Thạch Phước Bình- Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long thảo luận tại Hội trường sáng 5/12/2025 (Ảnh: media.quochoi.vn) |
Thứ nhất, về các mục tiêu cụ thể
Đại biểu cho rằng, Chương trình đặt mục tiêu đến năm 2030 nâng thu nhập nông thôn lên 2,5 đến 3 lần so với năm 2020; đưa tỷ lệ nghèo đa chiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số xuống dưới 10%; phấn đấu 65% xã đạt chuẩn NTM, trong đó 10% đạt NTM hiện đại; hướng tới 100% xã nghèo thoát khỏi tình trạng nghèo. Đến năm 2035, mục tiêu tiếp tục nâng thu nhập nông thôn thêm ít nhất 1,6 lần, đạt 85% xã NTM, trong đó 30% là NTM hiện đại, và giảm 50% số xã - thôn - bản khó khăn trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Tuy nhiên, hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo ở Tây Bắc vẫn trên 20%, Đông Bắc khoảng 9-10%, Tây Nguyên khoảng 7-8% và nhiều xã đặc biệt khó khăn còn trên 30% hộ nghèo; do đó mục tiêu “100% xã nghèo thoát nghèo vào năm 2030” là rất khó đạt nếu không có nguồn lực đặc biệt lớn. Tương tự, việc kỳ vọng 80% hộ dân tộc thiểu số sản xuất nông- lâm nghiệp hàng hóa cũng chưa sát thực tế, khi hiện tỷ lệ sản xuất hàng hóa ở nhiều địa phương mới đạt 30-40% và phụ thuộc mạnh vào thị trường, hạ tầng và năng lực tổ chức sản xuất.
Bên cạnh đó, một số lĩnh vực quan trọng chưa có chỉ tiêu lượng hóa rõ ràng, như: (1) Chuyển đổi số nông thôn, dù hiện nay mới khoảng 40-50% hộ có truy cập Internet ổn định ở vùng khó khăn; (2) Giảm tái nghèo, trong khi tỷ lệ tái nghèo vùng dân tộc thiểu số vẫn dao động 0,8- 1%/năm; (3) Phát triển doanh nghiệp và hợp tác xã, khi nhiều xã vùng núi chưa có hợp tác xã hoạt động hiệu quả; (4) Hạ tầng thiết yếu, trong khi chỉ riêng nước sinh hoạt đạt chuẩn mới khoảng 65-70% ở vùng dân tộc thiểu số, và đường thôn bản được cứng hóa mới đạt 50-60%.
Vì vậy, đại biểu kiến nghị điều chỉnh một số chỉ tiêu theo hướng sát thực hơn với tình hình vùng miền, đồng thời bổ sung các mục tiêu lượng hóa như: Tỷ lệ tái nghèo duy trì dưới 0,5%/năm vào năm 2030; 70% xã cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; 90% hộ nông thôn có Internet băng rộng; Mỗi xã có ít nhất một hợp tác xã hoạt động hiệu quả; 50% sản phẩm OCOP tham gia chuỗi giá trị liên kết; 100% trường học, trạm y tế vùng dân tộc thiểu số đạt chuẩn tối thiểu về cơ sở vật chất; 80% đường thôn bản được cứng hóa vào năm 2030.
Thứ hai, về phạm vi, thời gian và kinh phí thực hiện
Đại biểu cho biết, Chương trình được xác định triển khai trên phạm vi toàn quốc, ưu tiên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đây là cách tiếp cận phù hợp với đặc trưng của chương trình tích hợp, bảo đảm sự thống nhất về chính sách, đồng thời định hướng rõ ràng cho các vùng khó khăn, nơi vẫn còn khoảng cách rất lớn về thu nhập, hạ tầng và tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản. Mặt khác, chương trình được thiết kế theo chu kỳ 10 năm, chia làm 2 giai đoạn 2026-2030 và 2031-2035. Cách bố trí này cho phép đánh giá giữa kỳ, điều chỉnh chính sách và nguồn lực phù hợp, đồng thời bảo đảm tính liên tục trong triển khai.
Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất hiện nay nằm ở cơ cấu kinh phí. Với tổng nguồn vốn 500.000 tỷ đồng cho giai đoạn 20260-2030, trong đó ngân sách Trung ương chỉ 100.000 tỷ đồng và ngân sách địa phương lên tới 400.000 tỷ đồng, đại biểu cho rằng cơ cấu này chưa phản ánh đúng năng lực tài chính của từng vùng. Hiện nay, đa số các tỉnh vùng dân tộc thiểu số và miền núi có thu ngân sách thấp; nhiều tỉnh Tây Bắc chỉ đạt 2.000-5.000 tỷ đồng mỗi năm, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ cũng chủ yếu dựa vào hỗ trợ cân đối của Trung ương. Do vậy, yêu cầu địa phương đóng góp 80% tổng vốn là rất khó khả thi. Bên cạnh đó, dự thảo Nghị quyết cũng chưa làm rõ cơ chế phân bổ vốn theo mức độ khó khăn, chưa quy định rõ tỷ lệ vốn cho hạ tầng thiết yếu, chuyển đổi số, hay phát triển doanh nghiệp - hợp tác xã, trong khi đây là các nội dung then chốt để đạt mục tiêu NTM hiện đại và giảm nghèo bền vững.
Vì vậy, đại biểu đề xuất: Một là, tăng tỷ trọng ngân sách Trung ương lên 180.000 đến 200.000 tỷ đồng góp phần giảm áp lực cho địa phương. Hai là, áp dụng phân bổ vốn theo 3 mức độ khó khăn để tránh phân bổ bình quân, dàn trải; đảm bảo vốn “chảy” đúng nơi nghèo nhất - khó khăn nhất; tăng hiệu quả đầu tư, rút ngắn chênh lệch vùng miền; giúp địa phương chủ động thiết kế kế hoạch phù hợp năng lực và nhu cầu.
Cụ thể: Nhóm 1- Địa bàn đặc biệt khó khăn (ưu tiên cao nhất) gồm xã đặc biệt khó khăn, thôn bản vùng sâu - vùng xa, biên giới, dân tộc rất ít người. Mức hỗ trợ: 150-180% định mức chung. Ưu tiên vốn cho: hạ tầng thiết yếu, nước sinh hoạt, giao thông, chuyển đổi sinh kế, trường - trạm.
Nhóm 2- Địa bàn khó khăn trung bình gồm: các xã khu vực II và khu vực III đã thoát đặc biệt khó khăn nhưng hạ tầng còn thiếu. Mức hỗ trợ: 100% định mức chung. Ưu tiên vốn cho: hoàn thiện hạ tầng, sản xuất hàng hóa, chuyển đổi số. Nhóm 3- Địa bàn ít khó khăn hơn gồm: các xã khu vực I và xã đã đạt chuẩn NTM nhưng còn nhu cầu nâng cấp. Mức hỗ trợ: 70-80% định mức chung. Ưu tiên vốn cho: nâng cao chất lượng dịch vụ, NTM nâng cao, NTM hiện đại. Ba là, bổ sung cơ chế huy động vốn ngoài ngân sách, phấn đấu đạt 25-30% tổng nguồn lực. Bốn là, xác định rõ tỷ lệ vốn dành cho chuyển đổi số, hạ tầng thiết yếu và phát triển sinh kế. Đại biểu cho rằng, những điều chỉnh này cũng sẽ bảo đảm chương trình có đủ nguồn lực, triển khai sát thực tế và đạt mục tiêu bền vững cho giai đoạn 2026 - 2035.
KIẾN QUỐC (ghi)



Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin