Tại thảo luận Tổ, phát biểu góp ý Dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, đại biểu Trần Quốc Tuấn- Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Vĩnh Long góp ý Điều 13 về Quỹ Xúc tiến xuất khẩu ngành hàng và Điều 14 về sử dụng thuế phòng vệ thương mại để hỗ trợ doanh nghiệp.
Đại biểu cho rằng, đây là hai chính sách có tác động trực tiếp đến sức cạnh tranh của ngành hàng xuất khẩu, đến khả năng tự vệ của nền kinh tế trước các rủi ro hội nhập đang gia tăng nhanh chóng.
![]() |
Đối với Điều 13 về thành lập Quỹ Xúc tiến xuất khẩu ngành hàng, đại biểu Trần Quốc Tuấn cho rằng chủ trương thành lập Quỹ là đúng và cần thiết, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đã chuyển sang giai đoạn tiêu chuẩn cao, yêu cầu truy xuất nguồn gốc, xanh hóa chuỗi giá trị. Tuy nhiên, các doanh nghiệp và địa phương đều bày tỏ 3 quan ngại lớn, do vậy ĐBQH cần cân nhắc kỹ trong giai đoạn hoàn thiện nghị quyết.
Nguy cơ “tự nguyện thành bắt buộc”: Đại biểu cho rằng việc khuyến khích các hiệp hội ngành hàng có tỷ trọng xuất khẩu cao được thành lập Quỹ Xúc tiến xuất khẩu ngành hàng không vì mục tiêu lợi nhuận là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng nếu không thiết kế khung pháp lý rõ ràng, các khoản đóng góp tự nguyện có thể trở thành gánh nặng chi phí, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ hoặc doanh nghiệp mới tham gia xuất khẩu trong ngắn hạn…
Yêu cầu minh bạch tài chính tuyệt đối đối với nguồn quỹ này: Kinh nghiệm từ một số quỹ ngành nghề thời gian qua cho thấy, nếu thiếu minh bạch, các Quỹ sẽ mất niềm tin và không thể vận hành hiệu quả. Do đó, đại biểu kiến nghị Chính phủ, khi hướng dẫn Điều 13, phải quy định công khai 100% thu - chi, kiểm toán độc lập hàng năm và báo cáo bắt buộc gửi Bộ Công Thương và Bộ Tài chính.
Cần tránh phân tán, trùng lặp giữa các quỹ theo hiệp hội: Trong thực tế, một ngành có nhiều hiệp hội sẽ dẫn đến nhiều quỹ, làm chia nhỏ nguồn lực và giảm hiệu quả xúc tiến. Ví dụ: ngành thủy sản có nhiều hiệp hội theo vùng hoặc theo loại sản phẩm, và khi xảy ra vụ kiện chống bán phá giá với tôm, cá tra… nếu không có cơ chế phối hợp thống nhất, doanh nghiệp bị chia nhỏ tiếng nói, chi phí kiện tụng đội lên và giảm hiệu quả.
Từ đó, đại biểu đề xuất chỉ cho phép các hiệp hội đại diện tối thiểu 30-50% thị phần mới được phép thành lập Quỹ. Đồng thời, quy định về mục tiêu của Quỹ phải rõ ràng, tập trung vào 3 nhóm nhiệm vụ chiến lược: xúc tiến thị trường trọng điểm; hỗ trợ chuyển đổi xanh đáp ứng tiêu chuẩn EU, Mỹ; và xây dựng thương hiệu ngành hàng Việt Nam.
Đối với Điều 14 về sử dụng thuế phòng vệ thương mại để hỗ trợ doanh nghiệp, phòng vệ thương mại hiện nay đang trở thành điểm nghẽn số 1 của xuất khẩu Việt Nam. Theo trang Báo Vietnam.vn, đến giữa 2025, Việt Nam đã đối mặt hơn 291 vụ phòng vệ thương mại, từ 25 thị trường… Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ, không đủ kinh phí tham gia hồ sơ vụ kiện, dẫn đến mất thị trường oan uổng. Điều 14 của Dự thảo cho phép trích nguồn thu thuế phòng vệ thương mại để hỗ trợ doanh nghiệp; theo đại biểu, đây là một bước tiến, phù hợp với thông lệ quốc tế và đúng nhu cầu cấp bách.
Tuy nhiên, để chính sách thực thi hiệu quả, đại biểu kiến nghị cần làm rõ 4 định hướng lớn:
(1) Cần quy định trích tỷ lệ tối thiểu để tránh “hỗ trợ trên giấy”. Nếu không xác định mức trích cụ thể, nhiều địa phương và hiệp hội sẽ khó tiếp cận nguồn lực. Qua khảo sát thực tế, hầu hết các doanh nghiệp đề xuất trích tối thiểu 30-40% nguồn thu phòng vệ thương mại được phân bổ cho công tác phòng vệ.
(2) Cần ưu tiên hỗ trợ đối với các ngành có rủi ro cao và có đóng góp xuất khẩu lớn, gồm: thủy sản, gạo - rau quả, dừa, gỗ - nội thất, dệt may, năng lượng - pin, thép. Ví dụ như ngành thủy sản hiện nay đang bị tác động ép từ thuế công bằng của Mỹ 20% và thuế chống bán phá giá của Mỹ… làm cho ngành thủy sản Việt Nam hiện nay đang rất khó khăn). Đây là những ngành đang chịu nhiều cáo buộc về “phi thị trường”, lẩn tránh, xuyên biên giới.
(3) Cần có định hướng rõ về nguồn hỗ trợ này, không chỉ để giải quyết vấn đề “kiện tụng” mà hỗ trợ cả chuyển đổi mô hình tuân thủ. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đang rất cần hỗ trợ xây dựng hồ sơ truy xuất, chuẩn hóa quy trình, đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường… Đây mới chính là yếu tố quyết định cho sự đứng vững tại thị trường Mỹ và EU.
(4) Cần làm rõ hơn vai trò địa phương trong phòng vệ thương mại. Hầu hết các vụ kiện đòi hỏi dữ liệu sản xuất, chi phí, lao động từ cấp tỉnh. Do đó, cần quy định cơ chế phối hợp: lập tổ “phản ứng nhanh phòng vệ thương mại” cấp tỉnh; phối hợp đồng bộ với cơ quan hải quan, các hiệp hội ngành hàng; đồng thời cần quy định đào tạo cho doanh nghiệp để tránh vô ý “lẩn tránh xuất xứ”.
Để nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, đại biểu rất mong Quốc hội, Chính phủ cần quan tâm xem xét để bổ sung nội dung của nghị quyết này, tương ứng với 3 định hướng nền tảng:
Một là, cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm phòng vệ thương mại quốc gia. Thị trường quốc tế biến động theo giờ, nhưng doanh nghiệp thường biết quá muộn khi nước ngoài đã khởi kiện. Việt Nam cần hệ thống cảnh báo theo thời gian thực, kết nối dữ liệu Hải quan - Sở Công Thương - Tham tán thương mại.
Hai là, cần đầu tư phòng thí nghiệm - chuẩn hóa tiêu chuẩn quốc tế tại các vùng trọng điểm. Phần lớn doanh nghiệp đồng bằng sông Cửu Long khi xuất khẩu nông sản, thủy sản… phải gửi mẫu đi TP Hồ Chí Minh, làm tăng chi phí, mất thời gian, giảm tốc độ đáp ứng tiêu chuẩn. Theo đại biểu, hội nhập sâu thì hạ tầng kiểm định phải đi trước một bước.
Ba là, cần nâng cao năng lực hiệp hội ngành hàng. Hiệp hội các ngành hàng phải là lực lượng “tuyến đầu” trong xúc tiến, trong phòng vệ, trong chia sẻ thông tin chuẩn hóa tiêu chuẩn. Nếu hiệp hội yếu, cả Quỹ Xúc tiến (Điều 13) và nguồn hỗ trợ từ Điều 14 đều khó phát huy hiệu quả.
Đại biểu Trần Quốc Tuấn nói, hội nhập quốc tế ngày nay không chỉ là cơ hội mà còn là cuộc cạnh tranh pháp lý, công nghệ và tiêu chuẩn. Hai cơ chế tại Điều 13 và 14, nếu được thiết kế sắc bén và thực thi hiệu quả, sẽ giúp Việt Nam tăng nội lực, chủ động ứng phó, mở rộng thị trường một cách bền vững. Đây là lúc chúng ta chuyển từ “tham gia hội nhập” sang “dẫn dắt hội nhập”, để bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp Việt Nam và củng cố vị thế quốc gia trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
YẾN NHƯ (ghi)



Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin