Nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế

13:20, 20/11/2025

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, sáng 19/11, Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tỉnh Vĩnh Long và Đoàn ĐBQH tỉnh Sơn La tham gia thảo luận tại Tổ đại biểu số 13 về nội dung dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai; dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế; về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình.

Tại phiên thảo luận, ĐBQH Nguyễn Thị Quyên Thanh- Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long nhấn mạnh: Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đóng vai trò vô cùng quan trọng, là trụ cột vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi quốc gia. Ngoại giao không chỉ là cầu nối để thiết lập và duy trì môi trường hòa bình, ổn định mà còn là con đường để mở rộng hợp tác kinh tế, thu hút nguồn lực và tri thức từ bên ngoài, phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước.

Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh- Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long tham gia thảo luận.
Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh- Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long tham gia thảo luận.

Đại biểu nhất trí sự cần thiết ban hành Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế. Việc ban hành Nghị quyết nhằm thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về đối ngoại và hội nhập quốc tế, đồng thời kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn công tác hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, qua nghiên cứu Tờ trình của Chính phủ và các nội dung tại Báo cáo thẩm tra số 1347/BC-UBQPANĐN15 ngày 18/11/2025 của Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại, đại biểu tham gia một số ý kiến như sau:

Thứ nhất, về đối tượng áp dụng (Điều 2):

Dự thảo Nghị quyết đã xác định đối tượng là “cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc cơ quan, tổ chức trực tiếp, thường xuyên hoạt động trong lĩnh vực hội nhập quốc tế trong hệ thống chính trị, được quy định tại Phụ lục 1 kèm theo Nghị quyết này”. Đại biểu cho rằng quy định này cần phải giải thích cụ thể hơn bởi nếu giữ cách diễn đạt khá rộng như hiện nay thì các bộ, ngành, địa phương có thể hiểu khác nhau, dẫn đến mở rộng đối tượng, gây khó khăn trong quản lý và thẩm định, làm tăng áp lực ngân sách và dẫn tới thiếu công bằng giữa các nhóm cán bộ trong cùng đơn vị, bởi đây được xem là chính sách đặc thù nên cần thực hiện đúng và không dàn trải.

Đại biểu đề nghị cần bổ sung quy định: Về tính chất nhiệm vụ, phải là người thực hiện tham mưu, đàm phán, xử lý hồ sơ quốc tế, phối hợp thực hiện cam kết quốc tế, làm việc thường xuyên với các đối tác nước ngoài. Về tần suất công việc, thực hiện nhiệm vụ đối ngoại - hội nhập tối thiểu 50% quỹ thời gian làm việc. Về vị trí việc làm, phải thuộc danh mục vị trí việc làm đối ngoại, hội nhập, đảm bảo tiêu chuẩn và điều kiện theo quy định của Bộ Ngoại giao, được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc quy định rõ sẽ giúp tránh tình trạng mỗi nơi xác định một kiểu, khó kiểm soát và dễ gây tranh cãi.

Đối với Phụ lục 1 kèm theo dự thảo Nghị quyết, đại biểu kiến nghị cơ quan soạn thảo cần làm rõ phạm vi cơ quan, tổ chức; trong đó cần phân định cơ quan Trung ương và cơ quan địa phương; bộ phận hoặc cá nhân có nhiệm vụ đối ngoại thường xuyên; làm rõ nhóm đơn vị sự nghiệp, viện nghiên cứu, tổ chức xúc tiến có hoạt động hội nhập quốc tế thường xuyên. Điều này giúp bảo đảm tính thống nhất và tránh mở rộng không phù hợp.

Để bảo đảm khách quan, minh bạch và tránh lạm dụng chính sách, đại biểu đề nghị cần bổ sung trách nhiệm thẩm định, phê duyệt đối tượng; trong đó giao thẩm định danh sách đối tượng áp dụng cho các bộ, ngành, địa phương; có cơ chế kiểm tra, giám sát để bảo đảm đúng đối tượng, đúng nhiệm vụ ngay trong dự thảo Nghị quyết này.

Thứ hai, về nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu dự báo, nghiên cứu chiến lược; bảo đảm nguồn lực (Chương VI, VII):

Tại Báo cáo thẩm tra số 1347/BC-UBQPANĐN15 đã chỉ ra sự cần thiết phải có chế độ đặc thù về nhân lực và chính sách đãi ngộ, đại biểu thống nhất việc cần thiết phải có chính sách đặc thù và đãi ngộ. Quy định tại Điều 24 về chế độ, chính sách đối với người làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được xem là chính sách rất quan trọng nhằm thu hút, giữ chân và nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác đối ngoại, vốn phải đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về hội nhập quốc tế sâu rộng.

Tuy nhiên, một số nội dung trong Điều 24 cần được làm rõ tiêu chuẩn, phạm vi, nguồn lực, bảo đảm tính đồng bộ với cải cách tiền lương và tránh phát sinh chênh lệch, bất bình đẳng giữa các đối tượng trong hệ thống công vụ.

Tại khoản 1 Điều 24, dự thảo đề xuất hỗ trợ 100% mức lương theo hệ số hiện hưởng (không bao gồm phụ cấp), được miễn thuế thu nhập cá nhân và không tính đóng BHXH. Đại biểu đánh giá đây là bước tiến lớn nhưng đề nghị cần làm rõ 3 vấn đề:

(1) Quy định phạm vi đối tượng tại Mục B Phụ lục 1 còn rộng, bao gồm cả cán bộ ngoại vụ địa phương; nếu áp dụng đồng loạt mức 100% có thể tạo chênh lệch lớn với một số ngành cũng có nhiệm vụ quốc tế thường xuyên khác. Vì vậy, đề nghị cần quy định rõ tiêu chí thế nào là “làm công tác đối ngoại trực tiếp và thường xuyên”.

Thực tế ở địa phương, việc xác định “đối ngoại thường xuyên” đang thiếu thống nhất, chưa có tiêu chuẩn thống nhất từ trung ương đến địa phương; điều này tạo nguy cơ mở rộng đối tượng không đúng bản chất, gây khó cho khâu thẩm định và làm tăng chi phí ngân sách.

(2) Cần làm rõ nguồn kinh phí. Đối với các địa phương khó khăn, nếu không được ngân sách trung ương hỗ trợ, chính sách có thể không được thực hiện đồng bộ. Vì vậy, đại biểu kiến nghị cần bổ sung quy định: “Ngân sách trung ương hỗ trợ một phần kinh phí để bảo đảm thực hiện thống nhất trên toàn quốc”.

(3) Trách nhiệm của người đứng đầu (tại khoản 3 Mục B Phụ lục 1) cần được làm rõ nhằm đảm bảo đúng đối tượng và trách nhiệm khi xảy ra sai phạm, như mở rộng đối tượng, gây thất thoát. Cần quy định cơ chế giám sát để tránh lạm dụng chính sách. Quy định giao người đứng đầu cơ quan quyết định danh sách người được hưởng hỗ trợ là cần thiết, nhưng nếu không có cơ chế thẩm định, giám sát và tiêu chí cụ thể thì dễ dẫn đến thiếu thống nhất và nguy cơ thất thoát ngân sách. Đại biểu đề nghị bổ sung: Tiêu chí bắt buộc xác định “trực tiếp, thường xuyên” phải gắn với vị trí việc làm đã được phê duyệt. Mô tả công việc rõ ràng, trong đó ít nhất 50% nhiệm vụ thuộc lĩnh vực hội nhập quốc tế. Gửi Bộ Ngoại giao hoặc Bộ Nội vụ thẩm định và theo dõi, giám sát; đồng thời công khai minh bạch trong nội bộ cơ quan.

Tại khoản 2 Điều 24, dự thảo Nghị quyết quy định tỷ lệ ít nhất 40% là phù hợp trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng nhưng cần bổ sung yêu cầu về chất lượng. Đại biểu đề nghị cần quy định chương trình bồi dưỡng phải theo chuẩn của Bộ Ngoại giao, trong đó cần quan tâm kiến thức hội nhập, kỹ năng đàm phán, xử lý tình huống ngoại giao, ngoại ngữ bắt buộc và có chứng nhận kết quả.

Thứ ba, đại biểu thống nhất ý kiến thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại, tuy nhiên, đề nghị cơ quan soạn thảo cần quy định rõ hơn về thẩm quyền bổ nhiệm, trách nhiệm và chế độ đối với các chức danh “Đặc phái viên, Đại sứ lưu động”. Đối với chức danh đặc thù, đại biểu kiến nghị trong dự thảo Nghị quyết cần giao Chính phủ ban hành Đề án về các chức danh đối ngoại đặc thù để quy định chi tiết về quy trình bổ nhiệm, cơ chế làm việc và chế độ đãi ngộ (kể cả lương và công tác phí), bảo đảm sự linh hoạt, hiệu quả, phù hợp thông lệ quốc tế và được kiểm soát bởi Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Thứ tư, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu quy định cơ chế đặc thù cho “ngoại giao địa phương” như thẩm quyền ký kết, huy động nguồn lực, đào tạo bồi dưỡng… Thực tiễn hội nhập quốc tế hiện nay cho thấy địa phương đã trở thành chủ thể quan trọng trong triển khai các cam kết và điều ước quốc tế. Nếu được luật hóa, đại biểu tin rằng năng lực hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ được tăng cường từ cơ sở, tạo nên một mạng lưới đối ngoại đồng bộ, thống nhất, hiện đại, hiệu quả, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của đất nước và thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết, đặc biệt cần làm rõ căn cứ pháp lý và thực tiễn cho các cơ chế đặc thù, tăng cường kiểm soát quyền lực nhằm đảm bảo tính khả thi, hiệu quả và hợp hiến, hợp pháp của Nghị quyết.

YẾN NHƯ (ghi)

 

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh