Kỷ niệm 205 năm ngày sinh Ph.Ăngghen (28/11/1820-28/11/2025)
Tư tưởng về phát triển “rút ngắn” và ý nghĩa trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

10:21, 28/11/2025

Hướng tới Đại hội XIV của Đảng, với khát vọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, một câu hỏi lớn được đặt ra: Làm thế nào một quốc gia đi sau có thể thực hiện một bước phát triển nhanh mang tính lịch sử?

Việt Nam sẽ thực hiện thành công mục tiêu lịch sử đưa đất nước trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. (Ảnh minh họa: DUY LINH)
Việt Nam sẽ thực hiện thành công mục tiêu lịch sử đưa đất nước trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. (Ảnh minh họa: DUY LINH)

Hơn 140 năm trước, Ph.Ăngghen, nhà tư tưởng thiên tài và người đồng chí của C.Mác, đã trăn trở sâu sắc về vấn đề tương tự đối với nước Nga thời Sa hoàng: Liệu một xã hội tiền tư bản, còn tồn tại nhiều tàn dư của công xã nông thôn, có thể “vượt qua khe núi Các-đi-a” đau khổ của chủ nghĩa tư bản để tiến thẳng lên một hình thái xã hội cao hơn hay không? Đó chính là tư tưởng về con đường phát triển “rút ngắn”-một di sản lý luận quý giá mà ngày nay vẫn soi sáng con đường phát triển của Việt Nam.

Theo Ph.Ăngghen, các điều kiện khách quan để có khả năng phát triển “rút ngắn” là phải kế thừa và làm chủ những thành tựu văn minh của nhân loại, đặc biệt là các thành tựu về khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất. Phải kết hợp sức mạnh nội lực của dân tộc với việc tận dụng triệt để các nguồn lực và điều kiện thuận lợi từ bên ngoài. Phải luôn xuất phát từ thực tiễn khách quan, phân tích đúng bối cảnh lịch sử cụ thể để xác định con đường đi phù hợp, tránh giáo điều, chủ quan duy ý chí.

Đứng trên nền tảng lý luận vững chắc của Mác-Lênin, đặc biệt là tư tưởng của Ph.Ăngghen về phát triển “rút ngắn”, Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc vượt qua muôn vàn thử thách trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Về điều kiện bên ngoài, nếu Ph.Ăngghen nhấn mạnh sự cần thiết của “cách mạng vô sản ở phương Tây”, thì ngày nay Việt Nam chủ động tạo ra điều kiện thuận lợi thông qua chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Việc chúng ta chủ động, tích cực tiếp cận nhanh và khai thác có hiệu quả cơ hội và thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là sự vận dụng sáng tạo tinh thần của Ph.Ăngghen, đó là chủ động tương tác và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu phát triển của nhân loại, đặc biệt là công nghệ và vốn, từ chính các quốc gia tư bản phát triển và các đối tác chiến lược. Đồng thời, Việt Nam luôn kiên định nguyên tắc “tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin”, bảo đảm việc hấp thu công nghệ và vốn bên ngoài phục vụ cho mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội.

Về cơ sở vật chất-kỹ thuật, nếu Ph.Ăngghen nhấn mạnh nước Nga phải tiếp thu nền đại công nghiệp của phương Tây, thì Đảng ta đã xác định rõ ràng trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV: “Xác lập mô hình tăng trưởng mới với mục tiêu là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính...”.

Việt Nam không “rút ngắn” bằng cách bỏ qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà bằng cách thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo phương thức mới, đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến. Đất nước ta ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp mới nổi như chip bán dẫn, công nghiệp robot và tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, vật liệu tiên tiến, thậm chí là công nghiệp ứng dụng năng lượng nguyên tử và công nghiệp không gian vũ trụ. Đây chính là cách “tạo ra sức sản xuất và phương thức sản xuất mới chất lượng cao”, đáp ứng yêu cầu của Ph.Ăngghen về việc phải nắm bắt được “lực lượng sản xuất hiện đại”.

Về chủ thể lãnh đạo, nếu Ph.Ăngghen chỉ ra hạn chế của công xã Nga là thiếu một chủ thể xã hội đủ mạnh, thì Việt Nam có một lợi thế vô cùng to lớn: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - một Đảng đã được tôi luyện qua đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước. Đảng đóng vai trò là hạt nhân chính trị để kiến tạo tư duy phát triển, dẫn dắt thể chế, định hình chiến lược, thúc đẩy đồng thuận xã hội, khơi dậy khát vọng vươn mình của dân tộc. Việc kiện toàn bộ máy, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả chính là sự chuẩn bị về chủ thể để lãnh đạo quá trình phát triển rút ngắn.

Về yếu tố con người, đây là điểm mà Việt Nam vượt xa bối cảnh mà Ph.Ăngghen từng phân tích. Nếu Ph.Ăngghen chỉ ra sự hạn chế của người nông dân thời công xã, thì ngày nay Việt Nam xác định phát triển con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Một trong ba đột phá chiến lược được nêu rõ trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV là: “Tập trung chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài...”.

Bởi lẽ, mọi công nghệ tiên tiến, mọi nguồn vốn dồi dào từ bên ngoài sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có những con người đủ trình độ để tiếp nhận, làm chủ và sáng tạo. Việc xây dựng một nền giáo dục hiện đại, đào tạo ra những công dân có đủ phẩm chất và năng lực để làm chủ khoa học, công nghệ chính là sự chuẩn bị nội lực quan trọng nhất. Đây là sự phát triển biện chứng tư tưởng của Ph.Ăngghen trong thời đại mới, là không chỉ kế thừa “máy móc”, mà phải đào tạo ra những “người thợ” và “kỹ sư” có thể vận hành và cải tiến máy móc đó.

Quan trọng hơn nữa, Việt Nam khẳng định “Dân là gốc”, “Nhân dân là chủ thể, là trung tâm”, khơi dậy mạnh mẽ “khát vọng phát triển, tinh thần đoàn kết, ý chí tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”. Sức mạnh tổng hợp này là yếu tố nội sinh quan trọng nhất để vượt qua mọi khó khăn, thách thức.

Mặc dù bối cảnh lịch sử đã thay đổi, nhưng những nguyên tắc cốt lõi trong tư tưởng của Ph.Ăngghen về phát triển “rút ngắn” vẫn còn nguyên giá trị.

Thứ nhất, nguyên tắc về vai trò quyết định của lực lượng sản xuất. Không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nền tảng sự lạc hậu. Phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ là nhiệm vụ trung tâm. Điều này đòi hỏi Việt Nam tiếp tục phải coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là yếu tố đột phá, tập trung phát triển “lực lượng sản xuất mới” như kinh tế số, kinh tế xanh để nâng cao chất lượng tăng trưởng, vượt qua nguy cơ tụt hậu về công nghệ.

Thứ hai, nguyên tắc về tư duy biện chứng và đổi mới sáng tạo. Phải kế thừa và hấp thu mọi thành tựu văn minh của nhân loại, kể cả những thành tựu được tạo ra trong lòng chủ nghĩa tư bản. Ph.Ăngghen khẳng định công xã có thể nắm bắt được những lực lượng sản xuất to lớn của xã hội tư bản với tư cách là tài sản xã hội và công cụ xã hội. Đây là một quy luật phổ biến, không chỉ áp dụng cho Nga, mà còn cho tất cả các quốc gia đang trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, nguyên tắc về sự kết hợp nội lực và ngoại lực. Sự “vượt qua” là có điều kiện, đòi hỏi sự hội tụ của cả yếu tố bên trong và bên ngoài. Việt Nam thực hiện điều này thông qua việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vừa kiên định tự chủ chiến lược, vừa chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng.

Thứ tư, nguyên tắc về xuất phát từ thực tiễn khách quan. Phải phân tích đúng bối cảnh lịch sử cụ thể, tránh giáo điều và chủ quan duy ý chí. Ph.Ăngghen không bao giờ coi lịch sử là một con đường độc đạo. Tương tự, Việt Nam “kiên định về chiến lược, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược”, thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa quy luật phổ biến và tính đặc thù.

Tư tưởng của Ph.Ăngghen về phát triển “rút ngắn” không phải là một công thức máy móc để áp dụng, mà là một phương pháp luận biện chứng để phân tích và hành động, mà chỉ ra phát triển “rút ngắn” là một khả năng có điều kiện, chứ không phải một quy luật tất yếu hay một đặc ân dành riêng cho bất kỳ dân tộc nào; đòi hỏi sự hội tụ của cả những yếu tố bên trong và bên ngoài hết sức đặc thù, đồng thời cần có một chủ thể chính trị đủ mạnh để lãnh đạo.

Hơn một thế kỷ sau những bài viết của Ph.Ăngghen về nước Nga, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để thực hiện con đường phát triển “rút ngắn” của mình. Với nền tảng lý luận vững chắc, đường lối đúng đắn và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với khát vọng vươn lên của cả dân tộc, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng Việt Nam sẽ thực hiện thành công mục tiêu lịch sử đưa đất nước trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Con đường phát triển “rút ngắn” không phải là con đường trải đầy hoa hồng. Đó là con đường đầy chông gai, thử thách, đòi hỏi một ý chí sắt đá, một tầm nhìn chiến lược và sự sáng tạo không ngừng. Nhưng đó cũng là con đường duy nhất để một dân tộc đi sau có thể thu ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến, tránh được những khúc khuỷu không cần thiết và tiến thẳng đến một xã hội tốt đẹp hơn.

Theo nhandan.vn 

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh