Thảo luận về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, nhiều đại biểu Quốc hội nêu thực trạng kết quả giải ngân vốn ODA thường thấp hơn các dự án thực hiện bằng vốn ngân sách đầu tư công.
![]() |
| Quốc hội làm việc tại hội trường, nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công. (Ảnh: DUY LINH) |
Về nguyên nhân, có cả từ phía nhà tài trợ lẫn vướng mắc liên quan thể chế, quy trình, thủ tục trong nước, từ đàm phán đến giải ngân các nguồn vốn ODA. Thí dụ, Luật Quản lý nợ công hiện hành quy định quy trình và thực hiện các thủ tục về vốn ODA rườm rà, phải qua nhiều bộ, ngành, rồi xuống địa phương cũng vậy; thủ tục gấp đôi so với dự án đầu tư công sử dụng vốn ngân sách trong nước. Ngoài ra, còn vấn đề tổ chức thực hiện của các địa phương: Tiền có nhưng không giải ngân được, hết thời gian hiệp định, nhà tài trợ buộc phải thu hồi, rất đáng tiếc.
Hiện nay, điều kiện quan trọng để quyết định vay vốn ODA là phải bảo đảm hiệu quả tài chính và chỉ khi đó mới không lo lạm phát, không lo gánh nặng trả nợ quốc gia. Tuy không vay bằng mọi giá, nhưng trong lúc còn hạn chế về ngân sách thì đây là vấn đề cần đặc biệt quan tâm để bảo đảm tiến độ trong thu xếp các khoản vay ODA và bảo đảm tổ chức thực hiện tốt, nhanh chóng đưa nguồn lực vào phát triển kinh tế-xã hội.
Để tháo gỡ vướng mắc, dự thảo luật đã đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, nhất là phân cấp cho Thủ tướng Chính phủ thẩm quyền quyết định hạn mức vay về cho vay lại và hạn mức bảo lãnh hằng năm từ Chính phủ sang Thủ tướng Chính phủ, điều này giúp đơn giản hóa và rút ngắn quy trình phê duyệt. Dự thảo luật cũng giao Bộ Tài chính thẩm quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung, gia hạn thỏa thuận vay ODA, vay ưu đãi không làm tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ, quy định này cũng tạo sự linh hoạt trong quá trình thực thi và cắt giảm thủ tục hành chính…
Tuy nhiên, nhằm giúp Chính phủ huy động vốn hiệu quả trong thời gian tới cũng như bảo đảm tính thống nhất trong các hoạt động quản lý nợ công, có đại biểu đề nghị bổ sung nguyên tắc quản lý nợ công nội dung “mọi nghĩa vụ nợ của Chính phủ được đối xử bình đẳng”. Theo đại biểu, quy định này thể hiện cam kết của Chính phủ về khả năng và trách nhiệm trả nợ theo nguyên tắc đối xử bình đẳng, cũng là một trong những tiêu chí quan trọng mà các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế sử dụng để đánh giá hồ sơ rủi ro nợ của một quốc gia, vì thế, việc luật hóa nội dung này thành nguyên tắc là cần thiết.
Trên cơ sở đó, cần quy định trách nhiệm các cơ quan liên quan trong việc công khai đầy đủ và kịp thời các thông tin về nghĩa vụ nợ đã vay, tình hình sử dụng và trả nợ để các cơ quan hữu quan thuận tiện theo dõi và giám sát việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đã vay. Cần quy định bảo đảm tính công khai và minh bạch về các trường hợp đặc thù có thể xảy ra, sẽ được ưu tiên xử lý như thế nào, thí dụ như các khoản nợ khẩn cấp để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia…
Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trò của Kiểm toán nhà nước, các cơ quan thuộc Quốc hội trong việc kiểm toán, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm tuân thủ nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ nợ; tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý nợ công, nhất là trong đàm phán và hiểu biết về các điều khoản pháp lý quốc tế để áp dụng nguyên tắc này một cách linh hoạt và hiệu quả; tăng cường quản lý rủi ro tài khóa phát sinh từ hoạt động vay và cho vay lại, gắn với trách nhiệm của các bên liên quan.
Theo phản ánh của đại biểu Quốc hội, việc chưa tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong trao đổi, thẩm định, phê duyệt hồ sơ để bảo đảm thời gian và tiết kiệm chi phí còn hạn chế. Đáng chú ý, chưa có quy định về hệ thống thông tin dữ liệu, số liệu chia sẻ về nợ công giữa các cấp Trung ương và địa phương; việc tính toán nợ và trả nợ đối chiếu giữa các cơ quan quản lý đều thực hiện thủ công.
Để công tác quản lý nợ công hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu điều hành kịp thời, chính xác, cần tiếp tục xem xét bổ sung quy định giao Bộ Tài chính trách nhiệm quy định thống nhất hệ thống thông tin về dữ liệu nợ công liên thông giữa Trung ương, địa phương và từng đơn vị như trao đổi thông tin số liệu, đối chiếu rút vốn, trả nợ…
Theo nhandan.vn



Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin