Hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo là cấp bách, mang tính chiến lược

11:36, 26/11/2025

Tham gia thảo luận tại Tổ 13 về chủ trương xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo (GD-ĐT) giai đoạn 2026-2035 (vào ngày 25/11), đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh- Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, ĐBQH tỉnh Vĩnh Long cho rằng chủ trương này là rất cần thiết, cấp bách và mang tính chiến lược.

Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh- Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh thảo luận tại Tổ 13, ngày 25/11.
Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh- Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh thảo luận tại Tổ 13, ngày 25/11.

Thứ nhất, đại biểu đồng thuận cao Chương trình MTQG hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026-2035, khẳng định đây là một chương trình lớn, có ý nghĩa chiến lược và cấp bách. Chương trình này trực tiếp thể chế hóa Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển GD-ĐT. Đại biểu cho rằng trong suốt những năm qua, dù còn nhiều khó khăn, ngành Giáo dục Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận:

Một là, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, tạo cơ sở cho sự thay đổi toàn diện của ngành: Việc ban hành và triển khai Luật Giáo dục 2019 đã thể chế hóa kịp thời các chủ trương lớn của Đảng, đặc biệt là quy định giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc và mở rộng đối tượng được miễn học phí; quy định nâng trình độ chuẩn đào tạo của giáo viên các cấp, góp phần chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo. Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 91-KL/TW tiếp tục khẳng định và định hướng các nhiệm vụ trọng tâm để triển khai sâu rộng hơn Nghị quyết số 29-NQ/TW, đánh giá đúng những thành tựu đã đạt được sau 10 năm đổi mới.

Hai là, việc triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 là dấu ấn quan trọng nhất của nhiệm kỳ, đánh dấu sự chuyển đổi căn bản về giáo dục từ chương trình nặng về truyền thụ kiến thức sang chương trình phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của học sinh; đổi mới phương pháp dạy và học.

Ba là, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, tạo nền tảng vững chắc cho cấp tiểu học; duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Ngành đã có nhiều nỗ lực đảm bảo cơ chế, chính sách để học sinh vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số được tiếp cận giáo dục, duy trì sĩ số và chất lượng học tập. Các mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú đã được củng cố và phát huy vai trò.

Bốn là, tự chủ đại học là một trong những thành quả mang tính chiến lược, thúc đẩy giáo dục đại học Việt Nam phát triển theo chuẩn quốc tế. Nhiều trường đại học đã được trao quyền tự chủ cao hơn về học thuật, tổ chức nhân sự và tài chính, giúp các cơ sở giáo dục chủ động hơn trong việc xây dựng chương trình đào tạo, mở ngành, tuyển dụng và cải thiện thu nhập cho giảng viên, cán bộ quản lý.

Năm là, giáo dục Việt Nam đã nắm bắt mạnh mẽ xu thế Cách mạng công nghiệp 4.0 và triển khai chuyển đổi số toàn diện; ngành đã xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về GD-ĐT, tạo nền tảng cho việc quản lý, điều hành và cung cấp dịch vụ công trực tuyến.

Sáu là, Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế trong hội nhập quốc tế: Thành tích của học sinh Việt Nam trên đấu trường quốc tế liên tục được duy trì và phát triển. Các đội tuyển học sinh Việt Nam tham dự các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế liên tục đạt thành tích cao, duy trì trong Top 10 các quốc gia có số lượng huy chương vàng nhiều nhất. Học sinh phổ thông cũng đạt giải cao tại các cuộc thi khoa học kỹ thuật quốc tế, cho thấy việc đổi mới chương trình đã khuyến khích tư duy nghiên cứu, sáng tạo từ sớm.

Những thành quả nổi bật trong nhiệm kỳ qua đã khẳng định hướng đi đúng đắn của giáo dục Việt Nam, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc xem giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đại biểu cho rằng đây là tiền đề quan trọng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai.

Đại biểu nhất trí cao với Tờ trình số 1061/TTr-CP ngày 14/11/2025 của Chính phủ về chủ trương đầu tư Chương trình MTQG hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026-2035. Đây là chương trình lớn, có ý nghĩa chiến lược và cấp bách, trực tiếp thể chế hóa Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển GD-ĐT, với mục tiêu tổng quát là chuẩn hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng giáo dục; bảo đảm cơ hội tiếp cận giáo dục công bằng, chất lượng và hiệu quả; cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Đối tượng thụ hưởng là các cơ sở giáo dục công lập từ mầm non đến đại học (ngoại trừ một số trường đặc thù), học sinh, sinh viên, người học, nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và các tổ chức, cá nhân có liên quan thuộc các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Đại biểu cho rằng đây là mục tiêu bao quát và toàn diện.

Thứ hai, yêu cầu cấp bách từ thực tiễn hệ thống giáo dục: Theo đại biểu, qua hồ sơ Chính phủ trình, cả nước có 38.260 cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông, nhưng nhiều nơi, nhất là vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới- thiếu phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, thư viện, nhà công vụ, dẫn tới tỷ lệ phòng học kiên cố vẫn thấp: mầm non 82%, tiểu học 82,9%. Thiết bị dạy học đạt chuẩn còn rất thấp, phổ biến chỉ đạt 32-65% tùy cấp học. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp có 1.545 cơ sở, nhưng 65% thiết bị đã lạc hậu, 38-60% cơ sở chưa bảo đảm diện tích đất tối thiểu. Giáo dục đại học có 242 cơ sở, song hạ tầng nghiên cứu và không gian phát triển còn hạn chế, chưa tương xứng với mục tiêu cạnh tranh khu vực. Những con số trên cho thấy nếu không có một chương trình MTQG đủ lớn, dài hạn, giáo dục Việt Nam khó đạt bước phát triển mang tính đột phá theo Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Qua nghiên cứu tờ trình Chính phủ, đại biểu nhận thấy chương trình đã bám sát các nghị quyết của Đảng, Nhà nước và định nghĩa về chương trình MTQG. Đồng thời, chương trình cũng đồng bộ với các kế hoạch phát triển ngành giáo dục, chiến lược khoa học - công nghệ và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư là rất kịp thời.

Thứ ba, về mục tiêu, phạm vi và mức đầu tư: Chính phủ dự kiến tổng các nguồn lực huy động để thực hiện Chương trình giai đoạn 2026-2035 khoảng 580.133 tỷ đồng, bao gồm: (i) Vốn ngân sách Trung ương khoảng: khoảng 349.113 tỷ đồng (chiếm 60,2%); (ii) Vốn ngân sách địa phương: khoảng 115.773 tỷ đồng (chiếm 19,9%); (iii) Vốn đối ứng của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học: khoảng 89.073 tỷ đồng (chiếm 15,4%); (iv) Vốn huy động hợp pháp khác: dự kiến 26.173 tỷ đồng (chiếm 4,5%). Đại biểu tán thành cách tiếp cận phân kỳ 2026-2030 và 2031-2035. Tuy nhiên, đại biểu đề nghị:

(1) Cần lượng hóa rõ hơn các chỉ tiêu đầu ra theo từng cấp học như tỷ lệ trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia; số lượng trường đại học được đầu tư để đạt mức tiên tiến châu Á; tỷ lệ học sinh học nghề sau THCS đạt theo Chỉ thị số 21-CT/TW.

(2) Rà soát tính thống nhất giữa Chương trình với Quy hoạch tổng thể quốc gia. Báo cáo thẩm tra đã cảnh báo một số chỉ tiêu chưa đồng bộ, như mục tiêu xây dựng 3-5 đại học tinh hoa, phấn đấu 20% cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn tiên tiến châu Á. Đại biểu đề nghị rà soát để bảo đảm thống nhất.

Thứ tư, về cơ chế phân bổ và sử dụng vốn: Đại biểu thống nhất với ý kiến thẩm tra của Ủy ban Văn hóa - Xã hội của Quốc hội, đề nghị làm rõ cơ chế thẩm định nguồn vốn, khả năng cân đối vốn theo Quy định số 189-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực trong quản lý tài chính công. Đại biểu kiến nghị quy định rõ tiêu chí phân bổ vốn ưu tiên cho vùng khó khăn; tăng quyền chủ động cho địa phương, gắn trách nhiệm người đứng đầu trong tiến độ giải ngân; không dàn trải, không trùng lặp nội dung với các chương trình khác; tập trung vào 5 hợp phần lớn của chương trình như hồ sơ Chính phủ trình.

Thứ năm, về phát triển đội ngũ nhà giáo- yếu tố then chốt: Theo tờ trình, chương trình có dự án riêng về “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế”. Đại biểu đề nghị:

(1) Bổ sung chỉ tiêu bắt buộc: 100% giáo viên được bồi dưỡng chương trình mới theo chuẩn nghề nghiệp; 100% giáo viên phổ thông có khả năng ứng dụng kỹ năng số.

(2) Cho phép áp dụng cơ chế đặc thù theo hướng đặt hàng đào tạo giáo viên chất lượng cao tại các trường sư phạm chủ chốt.

Đồng thời, đề nghị Bộ GD-ĐT hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên, giảng viên ở tất cả cấp học, bảo đảm tiệm cận chuẩn khu vực và quốc tế về năng lực số, ngoại ngữ, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo lại giáo viên; chú trọng bồi dưỡng ngoại ngữ cho giáo viên cốt cán. Đẩy mạnh chuyển đổi số để giảm tải hành chính, giúp giáo viên tập trung chuyên môn. Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại và tài nguyên số phục vụ đổi mới dạy học.

Thứ sáu, về cơ sở vật chất cho giáo dục mầm non, phổ thông và nghề nghiệp: Theo báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư chương trình MTQG, Chính phủ nêu nhu cầu 234.874 tỷ đồng để kiên cố hóa và bổ sung phòng học, thiết bị tối thiểu cho giáo dục mầm non và phổ thông đến năm 2030. Đại biểu đề nghị ưu tiên trước các mục tiêu: đủ phòng học, lớp học đạt chuẩn; trang thiết bị tối thiểu theo quy định; bảo đảm 5 nhóm hạng mục: phòng học bộ môn, thư viện số, phòng STEM/STEAM theo Quy hoạch tổng thể quốc gia; thiết bị cho các nghề mới: tự động hóa, bán dẫn, AI, logistic số cho giáo dục nghề nghiệp. Khi cơ sở vật chất hiện đại hóa, học sinh và sinh viên sẽ hưởng lợi từ môi trường giáo dục đạt chuẩn quốc tế, góp phần tạo thế hệ nhân lực sáng tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên số. Đại biểu đề nghị Bộ GD-ĐT phối hợp với Bộ Tài chính và địa phương bảo đảm cân đối nguồn vốn.

Thứ bảy, về giáo dục đại học- mũi nhọn đổi mới sáng tạo: Theo báo cáo thẩm tra, hiện nay thiếu đại học nghiên cứu đẳng cấp, thiếu hạ tầng khoa học - công nghệ, thiếu không gian phát triển cho các đại học lớn. Đại biểu kiến nghị:

(1) Dành tỷ lệ vốn cao hơn cho các đại học trọng điểm gắn với cam kết kiểm định chất lượng quốc tế, đầu tư phòng thí nghiệm, thư viện, hạ tầng số phục vụ nghiên cứu.

(2) Xây dựng cụm đại học - đổi mới sáng tạo quốc gia kết nối Đại học Quốc gia, Đại học vùng với khu công nghệ cao, tạo hệ sinh thái hợp tác ba nhà và khởi nghiệp sáng tạo. Đây là động lực để đến năm 2035 có ít nhất một trường thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực, và 20% cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn tiên tiến châu Á.

Thứ tám, về cơ chế và giám sát, đại biểu kiến nghị:

(1) Chính phủ hoàn thiện hồ sơ, làm rõ phương án phân bổ vốn theo địa phương, thứ tự ưu tiên, lộ trình dự án;

(2) Quốc hội xem xét áp dụng cơ chế đặc thù tương tự các MTQG khác để bảo đảm linh hoạt, giảm thủ tục, nâng hiệu quả giải ngân;

(3) Tăng cường giám sát tối cao, nhất là các dự án về cơ sở vật chất trường học và hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp- hai lĩnh vực dễ chậm tiến độ. Qua đó, đồng hành cùng Chính phủ tháo gỡ khó khăn, bảo đảm tính khả thi.

Theo đại biểu, Chương trình MTQG giai đoạn 2026-2035 là bước đi quan trọng nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục, bảo đảm công bằng, thu hẹp khoảng cách vùng miền, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Đột phá phát triển GD-ĐT là mệnh lệnh của thời đại. Đại biểu tin tưởng rằng với kết quả đã đạt và quyết tâm thể chế hóa chính sách trong nhiệm kỳ tới, chúng ta sẽ tạo ra bước ngoặt lịch sử, xây dựng nền giáo dục hiện đại, nhân văn và xứng tầm khu vực.

HỒNG YẾN (ghi)

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh