Đóng góp cho mục tiêu định lượng, phạm vi thực hiện và cơ chế đặc thù của Chương trình mục tiêu quốc gia

16:17, 26/11/2025

Ngày 25/11, Quốc hội tiến hành thảo luận ở Tổ về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo (GD-ĐT) giai đoạn 2026-2035 và chủ trương đầu tư Chương trình MTQG về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035.

Đại biểu Trần Thị Thanh Lam- Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội tham gia phát biểu tại Tổ 13, ngày 25/11.
Đại biểu Trần Thị Thanh Lam- Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội tham gia phát biểu tại Tổ 13, ngày 25/11.

Tham gia thảo luận tại Tổ 13 có đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Trần Thị Thanh Lam- Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, ĐBQH tỉnh Vĩnh Long trao đổi về một số nội dung quan liên quan đến chủ trương đầu tư Chương trình MTQG về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 và chủ trương đầu tư Chương trình MTQG hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026-2035 như sau:

Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035

Trước hết, đại biểu đã bày tỏ sự đồng thuận cao với sự cần thiết ban hành Chương trình MTQG về chăm sóc sức khỏe dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035. Đại biểu nhấn mạnh rằng việc ban hành Chương trình đã thể chế hóa Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới và Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác dân số trong tình hình mới, Kết luận số 149-KL/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW và đặc biệt là Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 9/9/2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

Đại biểu cho rằng đây là một cơ hội rất lớn khi Chính phủ cùng trình dự án Luật Phòng bệnh, Luật Dân số, Nghị quyết đặc thù, đột phá về y tế và Chương trình MTQG cùng lúc tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, đảm bảo sự đồng bộ trong công tác chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Đại biểu cũng đồng tình với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, đánh giá báo cáo này rất toàn diện và chi tiết, bao gồm các Phụ lục thẩm tra công phu và kỹ lưỡng về dự án, tiểu dự án, mục tiêu đầu vào và đầu ra của chương trình.

Thứ nhất, về nội dung chương trình mục tiêu, theo đại biểu, qua nghiên cứu chương trình được xác định có 5 dự án, 17 tiểu dự án, 10 mục tiêu cụ thể và 78 chỉ tiêu để tổ chức thực hiện. Chương trình được chia làm 2 giai đoạn: 2026-2030 và 2030-2035. Cơ cấu nguồn vốn được phân bổ kỹ lưỡng, trong đó giai đoạn đầu (2026-2030) chiếm 70,63% và giai đoạn hai (2030-2035) chiếm 29,34% tổng vốn. Tổng kinh phí của chương trình được ước tính khoảng 125.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, đại biểu bày tỏ băn khoăn và đề nghị:

Một là, về y tế cơ sở, liên quan đến việc triển khai, đề nghị cần làm rõ liệu trung tâm y tế khu vực có nằm trong tuyến y tế cơ sở cùng với trạm y tế xã không và có thuộc đối tượng, phạm vi thực hiện chương trình hay không. Việc rà soát này là cần thiết để đảm bảo sự liên kết, thống nhất và đầu tư đồng bộ, liên thông trong tổ chức thực hiện, đặc biệt khi thực hiện tổ chức chính quyền địa phương hai cấp.

Hai là, về mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân, đại biểu cho biết, theo Nghị quyết số 72-NQ/TW đã đặt mục tiêu đạt 95% tỷ lệ BHYT vào năm 2026 (hiện năm 2025 đang đạt 94,2%). Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo quan tâm thêm để có giải pháp hướng đến mục tiêu BHYT toàn dân theo Nghị quyết số 72-NQ/TW, vì hiện tại mục tiêu này chưa được thể hiện rõ trong các mục tiêu đầu ra của Chương trình.

Ba là, về cơ cấu trạm y tế cấp xã: theo Thông tư số 43/2025/TT-BYT ngày 15/11/2025 của Bộ Y tế về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của trạm y tế xã, phường, đặc khu thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định trạm y tế cấp xã có tới 19 nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy lớn (5 phòng ban: dân số, trẻ em, bảo trợ xã hội, phòng bệnh, an toàn thực phẩm, khám chữa bệnh dược và thiết bị y tế). Đại biểu băn khoăn về việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ này trong một bộ khung mới, đặc biệt về biên chế, vị trí, con người, chi phí hoạt động khi trạm y tế thuộc UBND cấp xã quản lý. Cần đánh giá kỹ lưỡng, quan tâm đầu tư nguồn lực, cơ sở vật chất, nhân lực để đảm bảo đồng bộ với các quy định hiện hành và thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Bốn là, về chính sách thu hút nhân lực, đại biểu đồng tình với sự cần thiết phải có chính sách thu hút đội ngũ y, bác sĩ về công tác tại các vùng đặc biệt khó khăn và tuyến xã. Do Nghị quyết số 72-NQ/TW quy định mỗi trạm y tế cấp xã ít nhất phải có 4-5 bác sĩ (hiện chưa đạt bình quân), đại biểu đề nghị tính toán đưa mục tiêu này vào giai đoạn 2030 và phấn đấu giai đến năm 2035 hoàn thành hướng đến hoàn thành mục tiêu của chương trình là chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển.

Thứ hai, về Dự thảo Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình MTQG về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035. Đại biểu góp ý vào các mục tiêu cụ thể trong dự thảo Nghị quyết như sau:

Mục tiêu “trạm y tế xã, phường... triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh lây nhiễm đầy đủ theo quy trình hướng đến năm 2030 đạt 100%”  được nêu tại dự thảo Nghị quyết đại biểu cho là chưa cụ thể. Cần xác định rõ “một số bệnh” là những bệnh nào để thuận lợi cho việc đánh giá và tổ chức thực hiện đồng bộ.

Mục tiêu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi hiện nay là 18,1% xuống dưới 15% vào năm 2030 (giảm 3%) và dưới 13% vào năm 2035 (giảm 2%) bị coi là chưa hợp lý. Đại biểu cho rằng giai đoạn sau khi đã có đầu tư, mức giảm phải cao hơn giai đoạn trước, cần làm rõ và xác định lại mục tiêu này.

Mục tiêu tiếp cận thông tin: Đại biểu băn khoăn về từ “chăm sóc sức khỏe ban đầu” trong mục tiêu về tỷ lệ người dân tiếp cận thông tin đại chúng. Đại biểu đặt câu hỏi về cơ sở phân định giữa chăm sóc sức khỏe ban đầu và sức khỏe khác, lo ngại việc xác định này có thể “vô hình chung mình trói mình”.

Mục tiêu tăng số lượng người yếu thế, dễ tổn thương được tiếp cận dịch vụ tại cơ sở xã hội thêm 70% (2030) và 90% (2035), theo đại biểu là chưa rõ ràng và chưa cụ thể. Đại biểu cho rằng việc nêu đối tượng yếu thế và dễ bị tổn thương trong dự thảo Nghị quyết là còn chung chung, hiện chưa có văn bản nào xác định nhóm đối tượng này, do đó đại biểu đề nghị cần quy định cụ thể những trường hợp này. Mặc khác nếu để mục tiêu này thi chưa hợp lý bởi vì những người đã vào cơ sở bảo trợ xã hội thì hiển nhiên được tiếp cận dịch vụ xã hội của cơ sở đó cung cấp, do đó mục tiêu này là “vô thưởng, vô phạt”. Đại biểu đề nghị điều chỉnh chỉ tiêu này để tập trung vào việc củng cố cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ sở bảo trợ xã hội và cần quy định tỷ lệ đối tượng tại cộng đồng (người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn) được tiếp cận các dịch vụ xã hội thì hợp lý hơn, phù hợp với mục tiêu dự án 3, 4 của Chương trình.

Thứ ba, về phạm vi và cơ chế thực hiện: Đại biểu đề nghị bổ sung vùng bãi ngang ven biển vào phạm vi ưu tiên thực hiện, cùng với các vùng điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng biên giới và hải đảo (đề nghị sửa “biển đảo” thành “hải đảo”).

Thứ tư, về cơ chế chính sách đặc thù (Điều 1): Tại điểu a điểm b Điều 1 dự thảo Nghị quyết quy định “a) Quốc hội quyết định tổng mức dự toán cho Chương trình; Thủ tướng Chính phủ giao tổng dự toán cho cấp tỉnh và điều chỉnh khi cần thiết; cấp tỉnh chịu trách nhiệm phân bổ cho cấp xã trên cơ sở nguyên tắc phân cấp, phân quyền. Chính phủ tăng cường đôn đốc kiểm tra và giám sát để bảo đảm thực hiện kịp thời, hiệu quả, phù hợp với tình hình và đáp ứng yêu cầu thực tiễn; b) Các cơ chế, chính sách đặc thù khác được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và đẩy mạnh thực hiện Chương trình”. Đại biểu cho rằng cơ chế đang này chưa được cụ thể và quy định gần giống như chuyển từ Chương trình MTQG về ma túy sang. Đại biểu đề nghị rà soát lại để làm rõ cơ chế đặc thù riêng biệt của chương trình y tế này, rút kinh nghiệm từ 3 Chương trình MTQG trước đây (nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc), đảm bảo Chương trình được ban hành thực hiện hiệu quả và thông suốt đúng như kỳ vọng đã đặt ra.

Thứ năm, về công tác giám sát (Điều 4): dự thảo Nghị quyết quy định “Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và Nhân dân giám sát việc thực hiện Chương trình theo quy định của pháp luật”. Đại biểu đề nghị bổ sung vào Điều 4 vai trò giám sát của HĐND các cấp, đặc biệt, cần bổ sung nhiệm vụ tuyên truyền, vận động cho Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, ngoài nhiệm vụ giám sát, để tham gia thực hiện chương trình.

Đại biểu cho rằng dự thảo Nghị quyết phê duyệt chủ chương đầu tư Chương trình MTQG hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035 đã tiếp thu nhiều ý kiến sau thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội và dự thảo Nghị quyết lần này gửi đến các đại biểu thảo luận tương đối chặt chẽ, rõ ràng, cụ thể hơn. Tuy nhiên, đại biểu còn băn khoăn về một số nội dung như sau:

Về mục tiêu thực hiện chương trình: Tại khoản 4 Điều 1 quy định “Tiếp tục bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng, năng lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và người học”. Theo đại biểu, mục tiêu này liên quan đến đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng, năng lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và người học, mục tiêu này chủ yếu mang tính định tính, chưa có mục tiêu cụ thể để định lượng. Do đó, đại biểu đề nghị ban soạn thảo quan tâm xác định rõ có chỉ tiêu về đối tượng, số lượng và chất lượng, để có cơ sở xác định đầu ra cho mục tiêu này.

Về kinh phí thực hiện: Đại biểu cho rằng dự thảo Nghị quyết chỉ nêu kinh phí cho giai đoạn đầu (2026-2030), nên đề nghị bổ sung tổng nguồn vốn của cả giai đoạn (2026-2035) vào Nghị quyết của Quốc hội. Điều này sẽ tạo cơ sở để Quốc hội theo dõi, giám sát và đánh giá, mặc dù Chính phủ có thể trình Quốc hội quyết định nguồn lực cho giai đoạn 2031-2035 sau này.

HỒNG YẾN (ghi)

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh