Tham gia thảo luận tại Tổ đại biểu số 13 về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo (GD-ĐT) giai đoạn 2026-2035 và chủ trương đầu tư chương trình MTQG về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035, ĐBQH Nguyễn Thị Minh Trang- Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Vĩnh Long đề xuất một số giải pháp để các chương trình MTQG đạt hiệu quả tối đa.
![]() |
| Đại biểu Nguyễn Thị Minh Trang tham gia thảo luận tại Tổ đại biểu số 13 (ngày 25/11). |
Hướng đến mục tiêu nâng cao toàn diện sức khỏe
Đại biểu Nguyễn Thị Minh Trang cho rằng, Chương trình MTQG về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, đặc biệt sức khỏe và dân số là yếu tố then chốt hướng đến mục tiêu nâng cao toàn diện sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của Nhân dân, vì sự phát triển bền vững của đất nước. Việc nghiên cứu đề xuất các mục tiêu trong chương trình thể hiện quyết tâm chính trị cao với tổng vốn đầu tư 125.478 tỷ đồng cho giai đoạn 2026-2035, bao gồm 5 dự án thành phần, giải quyết toàn diện các vấn đề quan trọng, đặc thù (như già hóa dân số, bệnh không lây nhiễm, chăm sóc xã hội) và liên quan chặt chẽ đến Nghị quyết 72-NQ/TW. Chương trình thể hiện sự ưu tiên đầu tư vượt trội cho tuyến y tế cơ sở (mục tiêu 90-95% xã đạt chuẩn, 100% trạm y tế quản lý bệnh không lây nhiễm), đảm bảo mọi người dân được chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Đồng thời, đây là bước đột phá lớn về công nghệ với mục tiêu 100% người dân có Sổ sức khỏe điện tử vào năm 2030, tạo nền tảng quản lý sức khỏe cá nhân suốt đời. Đặc biệt, việc ưu tiên các đối tượng dễ bị tổn thương (người yếu thế, bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi) và khu vực khó khăn cho thấy rõ tính nhân văn và công bằng xã hội sâu sắc của chính sách y tế. Tuy nhiên, nghiên cứu bước đầu đối với các dự án, tiểu dự án của chương trình đại biểu nhận thấy việc hiện thực hóa Chương trình MTQG về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 vẫn còn tiềm ẩn nhiều thách thức trong thực thi như: vấn đề nguồn nhân lực; nguồn vốn; nguy cơ chồng chéo và thiếu đồng bộ; công tác giám sát và đánh giá.
Đột phá nhân lực, dữ liệu số để nâng tầm y tế cơ sở
Từ những thách thức vừa phân tích, để Chương trình MTQG về y tế, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 đạt hiệu quả tối đa, đại biểu có một số đề xuất cụ thể như sau:
Thứ nhất, tăng cường nhân lực và cơ chế tài chính đột phá cho y tế cơ sở: Đại biểu thống nhất cao với mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng cao phục vụ y tế cơ sở tại Tiểu dự án 2 của Dự án 1. Tuy nhiên, để cụ thể hóa chương trình, cần nghiên cứu ban hành cơ chế đột phá, đặc thù về nhân lực và cơ chế tài chính cho tuyến y tế cơ sở. Đặc biệt, các chính sách đặc thù về lương, phụ cấp và cơ hội đào tạo nâng cao (chuyên khoa sâu) cho cán bộ y tế làm việc tại y tế cơ sở và khu vực khó khăn là yếu tố then chốt. Việc này phải được gắn liền với việc triển khai ngay các cơ chế, chính sách để bảo vệ nhân viên y tế trước các rủi ro nghề nghiệp. Đây chính là giải pháp trực tiếp và mạnh mẽ nhất nhằm thu hút sinh viên, bác sĩ giỏi sau khi tốt nghiệp, khắc phục tình trạng mất cân bằng nhân lực, chảy máu chất xám và giải quyết sự thiếu hụt bác sĩ nghiêm trọng ở vùng sâu, vùng xa.
Về vấn đề tài chính, chương trình dự kiến huy động nguồn vốn hợp pháp khác khoảng 594 tỷ đồng cho cả giai đoạn 2026-2030, đại biểu cho rằng cần có cơ chế mạnh mẽ hơn để thu hút khu vực tư nhân tham gia vào các dự án. Sự tham gia này nên được tập trung vào các hoạt động phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe cộng đồng và đặc biệt là phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, bao gồm việc chuyển giao, áp dụng các công nghệ y tế tiên tiến (robot phẫu thuật, thiết bị chẩn đoán hình ảnh hiện đại…) và các mô hình quản lý hiệu quả. Điều này sẽ giúp nhanh chóng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế quốc gia. Ngược lại, NSNN có thể được tập trung và ưu tiên phân bổ cho các lĩnh vực công ích, y tế cơ sở và các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, vùng khó khăn - những nơi khu vực tư nhân ít mặn mà. Tất cả những giải pháp này không chỉ giúp giảm gánh nặng ngân sách mà còn tăng cường hiệu quả và chất lượng hệ thống y tế tổng thể, nhất là thúc đẩy nâng cao chất lượng dịch vụ, rút ngắn thời gian chờ đợi và cải thiện thái độ phục vụ người bệnh.
Thứ hai, về chuyển đổi số và quản lý dữ liệu trong thực hiện chương trình: Cần đẩy nhanh việc xây dựng nền tảng dữ liệu sức khỏe quốc gia tập trung với chuẩn dữ liệu thống nhất. Trong đó, Sổ sức khỏe điện tử phải là trung tâm kết nối giữa khám sức khỏe định kỳ miễn phí với các hệ thống BHYT và bệnh án điện tử, đảm bảo dữ liệu thông suốt và duy nhất. Song song đó, cần tổ chức đào tạo diện rộng về kỹ năng số và sử dụng Sổ sức khỏe điện tử cho cả nhân viên y tế và người dân, đặc biệt là người cao tuổi và người dân ở vùng khó khăn.
Về công tác truyền thông y tế, quản lý, theo dõi và giám sát thực hiện Chương trình (DA5), cần xây dựng và phát triển một bộ chỉ số đầu ra và tác động chi tiết, định lượng được cho từng dự án và cho các cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương. Bộ chỉ số này (KPIs) phải tích hợp đầy đủ dữ liệu tài chính, tiến độ giải ngân, các chỉ số về chất lượng dịch vụ, mức độ hài lòng của người dân và các chỉ số sức khỏe đầu ra của cả 5 dự án.
Ngoài ra, cần vận hành cơ chế điều phối liên ngành thống nhất, linh hoạt, dựa trên dữ liệu, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan chủ trì, các bộ, ngành liên quan và chính quyền địa phương. Cơ chế này sẽ trực tiếp xử lý các vấn đề chồng chéo hoặc mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ, đồng thời giám sát, đánh giá tiến độ tổng thể của Chương trình và phân bổ nguồn lực hiệu quả. Cuối cùng, cần ứng dụng chiến lược truyền thông đa kênh và cá nhân hóa thông qua các nền tảng mạng xã hội, ứng dụng di động và truyền thông lồng ghép tại cộng đồng. Đặc biệt, việc hợp tác với các bác sĩ, chuyên gia uy tín, cán bộ y tế cơ sở, cộng tác viên hay người cao tuổi uy tín để truyền tải thông điệp sức khỏe bằng ngôn ngữ và hình thức dễ hiểu, gần gũi với văn hóa địa phương, phù hợp từng nhóm đối tượng sẽ làm tăng độ tin cậy và khả năng tiếp cận của đại bộ phận người dân.
Cần hoàn thiện cơ chế, nhân lực và nguồn lực
Đối với Chương trình MTQG hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026-2035, đại biểu Nguyễn Thị Minh Trang cho rằng chương trình thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chính phủ nhằm thúc đẩy phát triển GD-ĐT bền vững dựa trên khoa học - công nghệ và chuyển đổi số. Chương trình được đánh giá là cần thiết và cấp bách để hiện đại hóa và nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của cuộc CMCN 4.0. Các mục tiêu cụ thể đến năm 2030 được xây dựng trên bốn trụ cột chính với tổng nguồn lực dự kiến rất lớn là 580.133 tỷ đồng. Dự báo sẽ đạt tính khả thi cao nhờ sự đồng bộ của hệ thống chính trị trong việc đảm bảo nguồn lực và cơ chế, cũng như phạm vi toàn diện (từ mầm non đến học tập suốt đời, bao gồm hạ tầng, thư viện số và chuyển đổi số quản lý) và mang tính nhân văn sâu sắc khi đặt mục tiêu thu hẹp chênh lệch chất lượng giáo dục giữa các vùng miền, đặc biệt là vùng khó khăn. Tuy nhiên, qua nghiên cứu dự thảo chương trình, nhất là đối với các 5 dự án thành phần, đại biểu đề xuất cơ quan soạn thảo cần tiếp tục phân tích cụ thể, xác đáng từng mục tiêu, cũng như dự báo những khó khăn thách thức hiện hữu và có thể phát sinh trong thực tiễn:
Một là, nguồn vốn và ngân sách, những áp lực trong huy động hiệu quả nguồn lực xã hội hóa và duy trì tổng mức đầu tư quy mô lớn trong 10 năm; triển khai đồng loạt trên phạm vi rộng dễ dẫn đến chậm giải ngân, chậm tiến độ, lãng phí hoặc chất lượng đầu tư không đồng đều giữa các địa phương, cũng như nguy cơ công nghệ lạc hậu, đòi hỏi chi phí duy trì, bảo trì và cập nhật tốn kém.
Hai là, mục tiêu xếp hạng đại học có nguy cơ đầu tư dàn trải nếu thiếu cơ chế tự chủ toàn diện.
Ba là, về nhân lực, mục tiêu tiếng Anh với 30% giáo viên đạt chuẩn là khá thấp (phấn đấu tối thiểu 30% cơ sở giáo dục phổ thông có giáo viên đủ năng lực giảng dạy một số môn khoa học tự nhiên và STEM/STEAM bằng tiếng Anh và triển khai thí điểm dạy học bằng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai ở một số môn), tạo ra khoảng trống lớn về chất lượng; thách thức then chốt là đào tạo lại đội ngũ giáo viên để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và sử dụng thiết bị hiện đại, thiếu sẵn sàng thay đổi phương pháp giảng dạy.
Từ những phân tích đó, để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của Chương trình, đại biểu đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần có cơ chế và nguồn lực linh hoạt, tập trung. Cụ thể, cần phân bổ nguồn vốn có trọng tâm, ưu tiên đầu tư dứt điểm vào các mục tiêu mang tính đột phá và lan tỏa trước (như hạ tầng chuyển đổi số và thiết bị dạy học tối thiểu cho vùng khó khăn) thay vì dàn trải. Về cơ chế tài chính, cần áp dụng cơ chế NSNN mồi (Seed Capital) kết hợp với chính sách khuyến khích mạnh mẽ để thu hút đầu tư tư nhân và cộng đồng. Đặc biệt, nên thí điểm mô hình Hợp tác công tư (PPP) trong giáo dục, nhất là trong đầu tư hạ tầng công nghệ, mua sắm thiết bị và quản lý thư viện số nhằm giảm gánh nặng ngân sách và tận dụng kinh nghiệm, công nghệ từ khu vực tư nhân.
Thứ hai, cần xem việc phát triển nhân lực và đào tạo là trọng tâm, xây dựng Chương trình Phát triển giáo viên kỹ thuật số nhằm mục tiêu chuẩn hóa 100% năng lực CNTT cho đội ngũ giáo viên theo lộ trình bắt buộc. Đồng thời, thiết lập cơ chế đánh giá hiệu suất (thưởng/phạt phân minh) gắn liền với việc ứng dụng công nghệ và đổi mới phương pháp giảng dạy. Đặc biệt, cần áp dụng chính sách đãi ngộ đặc thù (nhà công vụ, phụ cấp, luân chuyển) cho giáo viên làm việc tại các vùng khó khăn; đây là giải pháp then chốt để thu hẹp khoảng cách chất lượng giáo dục vùng miền một cách bền vững.
Thứ ba, đối với công tác quản lý và giám sát Chương trình, đề nghị tập trung ứng dụng công nghệ, tăng cường minh bạch và đánh giá khách quan thông qua Hệ thống thông tin quản lý dự án (PMIS) tập trung để giám sát tiến độ, giải ngân và hiệu quả đầu tư theo thời gian thực nhằm đảm bảo công khai, minh bạch trong mua sắm và triển khai dự án, chống dàn trải, thất thoát và lãng phí. Đặc biệt, quá trình đánh giá hiệu quả đầu ra của Chương trình phải dựa trên chất lượng học sinh, giáo viên và sự hài lòng của cộng đồng (thay vì chỉ tập trung vào hiệu quả đầu vào như số lượng công trình, thiết bị).
YẾN NHƯ (ghi)



Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin