Cụ thể hóa các biện pháp khuyến khích sinh đủ 2 con

16:04, 24/10/2025

Đóng góp trong phiên thảo luận ở tổ tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV vào chiều 23/10 về Dự án Luật Dân số, đại biểu Nguyễn Thị Minh Trang- Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận tỉnh ủy cho rằng, cần làm rõ và cụ thể hóa các biện pháp khuyến khích sinh đủ 2 con tại các địa phương có mức sinh thấp, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ về tài chính, nhà ở, giáo dục…   

 

Đại biểu Nguyễn Thị Minh Trang cho biết: Tôi cơ bản thống nhất với hầu hết các điều, khoản thể hiện trong Dự thảo Luật Dân số theo tờ trình của Chính phủ cũng như báo cáo của cơ quan chủ trì thẩm tra. Đây là văn bản pháp lý hết sức quan trọng, khi hoàn thiện sẽ có vai trò điều chỉnh toàn diện các vấn đề về dân số, nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước.

Góp phần vào việc hoàn thiện dự án luật, tôi xin tham gia một số ý kiến cụ thể sau:

Các biện pháp và tính khả thi trong điều chỉnh cơ cấu dân số, phân bố dân số hợp lý tại Điều 11 và Điều 14. Dự thảo cần có quy định chi tiết hơn về tính khả thi của các biện pháp:

Về điều chỉnh cơ cấu tuổi: Ngoài việc duy trì mức sinh thay thế, cần có các chính sách tổng thể về vấn đề di cư có chọn lọc (trong nước và quốc tế ) để giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động trẻ hoặc thừa lao động cao tuổi cục bộ.

Về phân bố dân số: Cần gắn kết chặt chẽ chính sách điều chỉnh phân bố dân số với chiến lược phát triển kinh tế vùng, quy hoạch đô thị, nông thôn mới. Biện pháp như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế) đồng bộ tại các vùng kém phát triển hoặc khu vực kinh tế trọng điểm cần thu hút dân cư là chìa khóa để khuyến khích dịch chuyển dân số một cách tự nguyện, bền vững.  

Quy định duy trì mức sinh thay thế (Điều 13)

Đây là quy định hết sức cần thiết, thể hiện sự chuyển hướng kịp thời của chính sách dân số. Tuy nhiên, để quy định này thực sự đi vào cuộc sống và đạt hiệu quả, tôi kiến nghị:

Làm rõ và cụ thể hóa các biện pháp khuyến khích sinh đủ 2 con tại các địa phương có mức sinh thấp, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ về tài chính, nhà ở, giáo dục, và thời gian nghỉ thai sản (bao gồm cả nam giới). Cần có sự phân hóa chính sách rõ ràng hơn giữa các vùng, các nhóm đối tượng.

Bổ sung cơ chế giám sát và đánh giá thường xuyên tác động của các chính sách khuyến sinh để kịp thời điều chỉnh, tránh tình trạng “hình thức” hoặc “một kích cỡ phù hợp cho tất cả”.

Quy định giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh tại Điều 15, đây là quy định quan trọng, song để tăng tính răn đe và hiệu quả, thì trong các quy định chi tiết dưới luật cần thiết có những quy định:

Tăng cường chế tài xử lý vi phạm liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi, đồng thời tăng cường các biện pháp giáo dục, truyền thông sâu rộng nhằm thay đổi nhận thức về giá trị của con gái, xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ.

Nghiên cứu bổ sung các quy định hỗ trợ xã hội, kinh tế cho các gia đình sinh con gái, đặc biệt là con một hoặc gia đình chỉ có con gái, để giảm áp lực tâm lý và xã hội lên việc sinh con trai.

Quy định về chính sách thích ứng với già hóa dân số, dân số già (Chương IV) là trọng tâm phản ánh xu thế dân số hiện tại và tương lai của Việt Nam.

Ở Điều 17 về Hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi: Tôi kiến nghị trong quá trình nghiên cứu đưa ra các quy định chi tiết về việc hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi, Chính phủ cần quy định rõ hơn về phạm vi và mức độ hỗ trợ (y tế, xã hội, thu nhập) cho các nhóm người cao tuổi khác nhau. Đồng thời, nhấn mạnh trách nhiệm của cộng đồng, gia đình bên cạnh trách nhiệm Nhà nước đối với bảo vệ, chăm sóc người cao tuổi.

Điều 18 đã quy định nhiều nội dung cốt yếu tại 3 khoản về Phát triển nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi.

Song, thực tế ở nước ta hiện nay nghề chăm sóc người cao tuổi, điều dưỡng viên đang đối mặt với nhiều thách thức: Lương thấp, áp lực cao, thiếu sự tôn trọng xã hội và cơ hội thăng tiến hạn chế. Thực tế này dẫn đến hệ quả: Thiếu hụt nguồn nhân lực cho lĩnh vực này và thiếu chuyên nghiệp hóa.

Vì vậy, tôi cho rằng các quy định tại Điều 18 không thể chỉ là một quy định mang tính kỹ thuật mà phải là một trụ cột then chốt, có ý nghĩa chiến lược sâu sắc, vượt ra ngoài khuôn khổ của một dịch vụ y tế đơn thuần và phải khắc phục được những rào cản thực tế bằng các chính sách mạnh mẽ và linh hoạt hơn để khuyến khích đào tạo, nâng cao chất lượng và chuyên nghiệp hóa lực lượng chăm sóc, điều dưỡng viên, đặc biệt là có chế độ đãi ngộ thỏa đáng để thu hút và giữ chân người lao động tại các cơ sở y tế và trung tâm chăm sóc xã hội, có như thế mới đáp ứng được yêu cầu đảm bảo chất lượng sống và phẩm giá cho người cao tuổi, giải quyết “Gánh nặng chăm sóc” cho gia đình và xã hội cũng như hướng tới phát triển ngành công nghiệp chăm sóc.

Việc tăng dung lượng chính sách đặc thù trong luật hoặc các văn bản dưới luật khi Chính phủ quy định chi tiết cho điều khoản này không chỉ là vấn đề mang tính nhân văn, nhân đạo mà còn là một giải pháp kinh tế - xã hội cấp bách để giải phóng nguồn lực gia đình, thúc đẩy kinh tế dịch vụ và đảm bảo an sinh xã hội khi Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn dân số già.  

BT (ghi)  

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh