Công ước Hà Nội: Khẳng định vị thế, uy tín và năng lực hội nhập toàn cầu của Việt Nam trong kỷ nguyên số

14:00, 20/10/2025

Việc Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng (Công ước Hà Nội) được mở ký tại Việt Nam mang ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ về mặt pháp lý quốc tế mà còn khẳng định vị thế, uy tín và năng lực hội nhập toàn cầu của Việt Nam trong kỷ nguyên số. 

Quang cảnh họp báo quốc tế về Lễ mở ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng. (Ảnh: TRUNG HƯNG)
Quang cảnh họp báo quốc tế về Lễ mở ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng. (Ảnh: TRUNG HƯNG)

Đó là nhận định của Tiến sĩ Trần Hải Linh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc (VKBIA), Chủ tịch sáng lập Hội chuyên gia, trí thức Việt Nam-Hàn Quốc (VKEIA) trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo Nhân Dân về ý nghĩa của việc Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng với chủ đề “Chống tội phạm mạng - Chia sẻ trách nhiệm - Hướng tới tương lai” (Công ước Hà Nội) được mở ký tại Việt Nam vào cuối tháng 10/2025.

Phóng viên: Vào ngày 25 và 26/10 tới, tại Hà Nội sẽ diễn ra Lễ mở ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng với chủ đề “Chống tội phạm mạng - Chia sẻ trách nhiệm - Hướng tới tương lai”, vậy xin ông cho biết, việc Công ước Hà Nội được mở ký tại Việt Nam có ý nghĩa như thế nào đối với vị thế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh mạng và hợp tác pháp lý quốc tế?

Tiến sĩ Trần Hải Linh: Việc Công ước Hà Nội được mở ký tại Việt Nam mang ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ về mặt pháp lý quốc tế mà còn khẳng định vị thế, uy tín và năng lực hội nhập toàn cầu của Việt Nam trong kỷ nguyên số. Đây là lần đầu tiên một công ước quốc tế lớn về phòng, chống tội phạm mạng và hợp tác tư pháp điện tử xuyên biên giới được mang tên thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, ngoại giao của Việt Nam.

Trước hết, điều này thể hiện niềm tin và sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với vai trò chủ động, tích cực của Việt Nam trong việc thúc đẩy xây dựng một không gian mạng an toàn, minh bạch và có trách nhiệm. Việt Nam không chỉ là quốc gia thụ hưởng mà còn đóng góp trí tuệ, tiếng nói và sáng kiến vào tiến trình quốc tế về an ninh mạng.

Chiều 24/12/2024 (giờ New York), Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua bằng đồng thuận Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng. Theo quy định tại Điều 64 của Công ước, văn kiện này sẽ được mở ký tại Thủ đô Hà Nội trong năm 2025. Theo đó, Công ước có tên gọi là “Công ước Hà Nội”. (Ảnh: TTXVN)
Chiều 24/12/2024 (giờ New York), Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua bằng đồng thuận Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng. Theo quy định tại Điều 64 của Công ước, văn kiện này sẽ được mở ký tại Thủ đô Hà Nội trong năm 2025. Theo đó, Công ước có tên gọi là “Công ước Hà Nội”. (Ảnh: TTXVN)

Thứ hai, Công ước Hà Nội mở ra cơ hội để Việt Nam tăng cường hợp tác pháp lý quốc tế, đặc biệt trong xử lý tội phạm công nghệ cao, bảo vệ dữ liệu cá nhân, và ứng phó với những thách thức xuyên biên giới trong không gian mạng. Đây là cơ sở quan trọng giúp Việt Nam nâng cao năng lực điều tra, truy tố, xét xử, đồng thời tạo dựng hành lang pháp lý vững chắc để thu hút đầu tư số và củng cố niềm tin của các đối tác quốc tế.

Cuối cùng, việc Công ước mang tên “Hà Nội” cũng là một biểu tượng về tinh thần hội nhập và trách nhiệm toàn cầu của Việt Nam - một quốc gia đang chuyển mình mạnh mẽ từ “người tham gia” sang “người định hình luật chơi” trong các vấn đề toàn cầu. Điều đó góp phần nâng cao vị thế, ảnh hưởng và hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, phù hợp với đường lối đối ngoại “tự cường, chủ động, tích cực và hội nhập sâu rộng” mà Đảng và Nhà nước đang triển khai.

Việc Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng với chủ đề “Chống tội phạm mạng - Chia sẻ trách nhiệm - Hướng tới tương lai” được mở ký tại Việt Nam mang ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ về mặt pháp lý quốc tế mà còn khẳng định vị thế, uy tín và năng lực hội nhập toàn cầu của Việt Nam trong kỷ nguyên số. Đây là lần đầu tiên một công ước quốc tế lớn về phòng, chống tội phạm mạng và hợp tác tư pháp điện tử xuyên biên giới được mang tên thủ đô Hà Nội – trung tâm chính trị, ngoại giao của Việt Nam.

Tiến sĩ Trần Hải Linh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc

Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về vai trò dẫn dắt của Việt Nam trong quá trình đàm phán Công ước, đặc biệt là trong việc dung hòa khác biệt giữa các quốc gia để đạt được sự đồng thuận?

Tiến sĩ Trần Hải Linh: Tôi cho rằng vai trò dẫn dắt của Việt Nam trong quá trình đàm phán Công ước Hà Nội là một điểm sáng nổi bật, thể hiện bản lĩnh ngoại giao, năng lực điều phối và uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam trên trường toàn cầu.

Trong bối cảnh thế giới còn tồn tại nhiều khác biệt về cách tiếp cận an ninh mạng, chủ quyền số và quyền riêng tư dữ liệu, Việt Nam đã thể hiện vai trò “cầu nối đối thoại” giữa các nhóm quốc gia với hệ thống pháp lý, trình độ phát triển và lợi ích khác nhau. Sự mềm dẻo, khéo léo trong ngoại giao kết hợp với nguyên tắc tôn trọng luật pháp quốc tế và lợi ích chính đáng của mọi bên đã giúp Việt Nam dung hòa được các quan điểm, từ đó thúc đẩy tiến trình đàm phán đạt đến sự đồng thuận hiếm có.

Đặc biệt, việc Việt Nam đảm nhiệm vai trò chủ nhà đăng cai và đồng chủ trì nhiều phiên thương lượng then chốt cho thấy khả năng “dẫn dắt bằng niềm tin” - một dạng quyền lực mềm đặc trưng của Việt Nam trong ngoại giao đa phương hiện đại. Thay vì áp đặt hay đối đầu, Việt Nam chọn cách tạo dựng đồng thuận, thúc đẩy hợp tác và cùng nhau giải quyết thách thức toàn cầu trên tinh thần “an ninh mạng là lợi ích chung của nhân loại”.

Từ góc độ đó, có thể khẳng định rằng, Việt Nam không chỉ góp phần định hình nội dung Công ước, mà còn định hình phương thức đối thoại quốc tế mới, mang dấu ấn của sự cởi mở, thực chất và hài hòa lợi ích - điều rất cần thiết trong bối cảnh thế giới đang hướng tới một trật tự số công bằng và bền vững hơn.

Ngày 22/9/2025, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an Việt Nam phối hợp Văn phòng Liên hợp quốc về Phòng chống ma túy và tội phạm (UNODC) đồng tổ chức sự kiện “Con đường tới Hà Nội: Lễ mở ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng - Tôn vinh chủ nghĩa đa phương vì một tương lai số an toàn. Trong ảnh: Các đồng chủ tọa sự kiện. (Ảnh: TTXVN)
Ngày 22/9/2025, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an Việt Nam phối hợp Văn phòng Liên hợp quốc về Phòng chống ma túy và tội phạm (UNODC) đồng tổ chức sự kiện “Con đường tới Hà Nội: Lễ mở ký Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng - Tôn vinh chủ nghĩa đa phương vì một tương lai số an toàn". Trong ảnh: Các đồng chủ tọa sự kiện. (Ảnh: TTXVN)

Phóng viên: Trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị giữa các cường quốc, Việt Nam đã thể hiện khả năng cân bằng lợi ích và thúc đẩy hợp tác như thế nào trong quá trình xây dựng Công ước, thưa ông?

Tiến sĩ Trần Hải Linh: Trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị giữa các cường quốc ngày càng gay gắt, việc Việt Nam đảm nhiệm vai trò chủ động và cân bằng trong quá trình xây dựng Công ước Hà Nội là một minh chứng rõ nét cho tư duy đối ngoại bản lĩnh, độc lập, tự chủ và đa phương linh hoạt của Việt Nam.

Việt Nam không đứng về phía nào trong các cuộc cạnh tranh lợi ích, mà đặt trọng tâm vào lợi ích chung của cộng đồng quốc tế - đó là xây dựng một không gian mạng an toàn, tin cậy và phục vụ con người. Trong suốt quá trình đàm phán, Việt Nam đã thể hiện năng lực trung gian hòa giải, dung hòa được các khác biệt về quan điểm giữa các nước phát triển và đang phát triển, giữa các khối có cách tiếp cận khác nhau về an ninh, quyền riêng tư và chủ quyền số.

Sự bình tĩnh, kiên định nhưng mềm dẻo trong lập trường ngoại giao của Việt Nam đã giúp duy trì được đối thoại cởi mở và hợp tác thực chất, tránh để Công ước trở thành công cụ cạnh tranh chính trị hay áp đặt giá trị. Việt Nam đã khéo léo vận dụng “ngoại giao cây tre” - gốc rễ vững vàng, thân dẻo dai, cành vươn xa để vừa bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa đóng góp vào lợi ích toàn cầu.

Qua đó, Việt Nam cho thấy khả năng “làm bạn với tất cả, không đối đầu với ai”, đồng thời thúc đẩy hợp tác dựa trên luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Chính sự cân bằng và uy tín này đã giúp Việt Nam trở thành trung tâm kết nối niềm tin, nơi các quốc gia có thể cùng nhau đối thoại và tìm tiếng nói chung trong một lĩnh vực nhạy cảm như an ninh mạng.

Hà Nội đăng cai Lễ mở ký Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng từ ngày 25 đến 26/10/2025. (Ảnh chụp màn hình: TRUNG HƯNG)
Hà Nội đăng cai Lễ mở ký Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng từ ngày 25 đến 26/10/2025. (Ảnh chụp màn hình: TRUNG HƯNG)

Phóng viên: Theo ông, Công ước Hà Nội có thể tạo ra những tác động gì đối với khu vực và thế giới trong việc tăng cường hợp tác phòng, chống tội phạm mạng? Những bài học nào từ quá trình này có thể áp dụng cho các sáng kiến đa phương khác?

Tiến sĩ Trần Hải Linh: Công ước Hà Nội ra đời không chỉ là một văn kiện pháp lý quốc tế mới trong lĩnh vực an ninh mạng, mà còn là biểu tượng của tinh thần hợp tác, niềm tin và trách nhiệm toàn cầu trong kỷ nguyên số. Tác động của Công ước này sẽ lan tỏa theo nhiều hướng, đặc biệt là trong việc tăng cường cơ chế phối hợp giữa các quốc gia trong phòng, chống tội phạm mạng xuyên biên giới - vốn là thách thức không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết.

Trước hết, Công ước sẽ giúp thiết lập nền tảng hợp tác pháp lý thống nhất, tạo cơ sở để các quốc gia chia sẻ thông tin, hỗ trợ điều tra, dẫn độ và xử lý tội phạm mạng một cách hiệu quả hơn, đồng thời bảo đảm quyền con người, quyền riêng tư và chủ quyền số của mỗi quốc gia. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang trở thành tâm điểm của chuyển đổi số, song cũng là mục tiêu của các nguy cơ an ninh mạng ngày càng tinh vi.

Thứ hai, quá trình đàm phán và đạt được sự đồng thuận về Công ước Hà Nội đã mang lại một bài học quý giá cho các sáng kiến đa phương khác: đó là, chỉ có đối thoại bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và lấy lợi ích chung làm trung tâm mới có thể tạo ra sự thống nhất thực chất giữa các quốc gia có trình độ và hệ giá trị khác nhau. Việt Nam với vai trò nước chủ trì đã chứng minh rằng một quốc gia đang phát triển vẫn có thể đóng vai trò “kiến tạo đồng thuận”, giúp kết nối tiếng nói giữa các cường quốc và các nước nhỏ hơn.

Công ước Hà Nội vì thế không chỉ góp phần tăng cường an ninh, an toàn mạng toàn cầu, mà còn mở ra một mô hình hợp tác quốc tế mới – linh hoạt, thực tiễn và hướng tới phát triển bền vững. Đây là nền tảng quan trọng để các quốc gia cùng học hỏi, áp dụng trong những lĩnh vực khác như biến đổi khí hậu, trí tuệ nhân tạo hay chuyển đổi xanh – nơi mà tinh thần hợp tác đa phương, tin cậy và đồng thuận sẽ tiếp tục là chìa khóa cho tương lai.

Phóng viên: Nhìn từ góc độ quốc tế, Việt Nam có thể làm gì tiếp theo để duy trì vai trò chủ động và ảnh hưởng trong việc thúc đẩy thực thi Công ước cũng như các cơ chế hợp tác quốc tế khác về an ninh mạng, thưa ông?

Tiến sĩ Trần Hải Linh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc (VKBIA), Chủ tịch sáng lập Hội chuyên gia, trí thức Việt Nam-Hàn Quốc (VKEIA).
Tiến sĩ Trần Hải Linh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc (VKBIA), Chủ tịch sáng lập Hội chuyên gia, trí thức Việt Nam-Hàn Quốc (VKEIA).

Tiến sĩ Trần Hải Linh: Để duy trì vai trò chủ động và gia tăng ảnh hưởng trong việc thúc đẩy thực thi Công ước Hà Nội cũng như các cơ chế hợp tác quốc tế về an ninh mạng, Việt Nam nên tiếp tục triển khai đồng bộ cả chính sách đối ngoại, năng lực trong nước và mối liên kết đa phương,đa ngành. Theo tôi, cần có một số bước đi cụ thể như sau:

Chuyển từ ký kết sang triển khai thực chất. Theo đó, cần xây dựng lộ trình triển khai Công ước ở mức quốc gia: khung pháp lý, hướng dẫn kỹ thuật, tiêu chuẩn phối hợp liên ngành; Ban hành văn bản hướng dẫn để các cơ quan, địa phương, doanh nghiệp, tổ chức nghề nghiệp biết rõ trách nhiệm và quy trình phối hợp xuyên biên giới khi vụ việc xảy ra.

Tiếp đến là phải tăng cường năng lực thực thi. Theo đó, cần nâng cao năng lực cho lực lượng điều tra, tòa án, công tố về tội phạm mạng (đào tạo chuyên sâu, chương trình thực hành chung với đối tác quốc tế).Phát triển và tài trợ cho các đội ứng phó sự cố mạng (CERT) ở Trung ương và địa phương; tổ chức diễn tập liên ngành, liên quốc gia hàng năm.

Tăng cường hoàn thiện luật và tiêu chuẩn kỹ thuật. Hoàn thiện luật, văn bản hướng dẫn liên quan (bảo vệ dữ liệu cá nhân, an ninh mạng, hợp tác tư pháp điện tử) để tương thích với cam kết Công ước, đồng thời bảo đảm tôn trọng quyền con người. Thúc đẩy tiêu chuẩn kỹ thuật, khung chia sẻ thông tin an ninh mạng giữa các bên theo nguyên tắc bảo mật, tuân thủ pháp luật.

Thúc đẩy hợp tác công-tư và đa bên. Theo đó, khuyến khích mô hình PPP (public–private partnership): nhà nước phối hợp với doanh nghiệp công nghệ, ngân hàng, viễn thông để đặt nền tảng chia sẻ cảnh báo sớm. Tạo diễn đàn định kỳ giữa chính phủ, doanh nghiệp,học thuật, xã hội dân sự để cập nhật rủi ro và phối hợp phản ứng.

Xây dựng Trung tâm chuyên môn/Trung tâm xuất sắc, với việc thiết lập một hub khu vực tại Hà Nội (hoặc kết nối Hà Nội–Hàn Quốc) chuyên về đào tạo, nghiên cứu và hợp tác kỹ thuật trong an ninh mạng, làm điểm nhấn cho ngoại giao số của Việt Nam.

Triển khai chương trình hợp tác kỹ thuật song phương và khu vực. Cụ thể cần mở rộng chương trình đào tạo, trao đổi chuyên gia với các đối tác tiên tiến (Hàn Quốc, EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ) và tích cực trong khung ASEAN+ để chia sẻ bài học và tiêu chuẩn.

Hỗ trợ cho SMEs & hạ tầng quan trọng bằng cách cung cấp gói hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ - là nhóm dễ tổn thương nhưng quan trọng cho chuỗi cung ứng; ưu tiên bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu (y tế, năng lượng, tài chính) bằng mô hình đánh giá rủi ro chung và bảo trợ tài chính cho nâng cấp an ninh.

Minh bạch, giám sát và báo cáo, xây dựng chỉ số/khung đánh giá tiến độ thực thi Công ước: số vụ phối hợp quốc tế, thời gian phản ứng, năng lực CERT, tỷ lệ vụ được xử lý… Công khai báo cáo định kỳ để tăng niềm tin quốc tế.

Duy trì tinh thần đa phương, cân bằng lợi ích: Tiếp tục đóng vai trò trung gian xây dựng đồng thuận, duy trì lập trường tôn trọng luật pháp quốc tế, quyền con người và lợi ích chung, để Công ước được áp dụng thực chất chứ không bị công cụ hóa vì lợi ích địa chính trị.

Truyền thông chiến lược và ngoại giao kiến tạo; sử dụng ngoại giao kỹ thuật (technical diplomacy): tổ chức hội nghị, workshop quốc tế tại Việt Nam, mời chuyên gia, đối tác, và công bố sáng kiến hợp tác rõ ràng để giữ nhịp độ ảnh hưởng sau khi Công ước được ký.

Nói chung, theo tôi, Việt Nam cần chuyển nhanh từ giai đoạn đàm phán sang triển khai thực chất: hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực điều tra và ứng phó sự cố, đồng thời thúc đẩy hợp tác công–tư và đa phương. Việc thành lập các trung tâm, chuyên môn, chương trình đào tạo quốc tế và diễn tập liên quốc gia sẽ giúp Việt Nam không chỉ tuân thủ mà còn dẫn dắt thực thi Công ước. Cùng với minh bạch hóa tiến trình và chỉ số đánh giá, Việt Nam sẽ duy trì được vai trò chủ động, góp phần xây dựng một không gian mạng an toàn, đáng tin cậy cho khu vực và toàn cầu.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!

Theo Khánh Lan/nhandan.vn 

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh