188 ngày đầu lập nước và quyết sách của Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp

09:37, 11/08/2025

Từ thiết quân luật, xóa mù chữ đến cải cách công vụ, 188 ngày làm Bộ trưởng Nội vụ của Võ Nguyên Giáp đã góp phần kiến tạo nền hành chính nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


Bộ trưởng Bộ Nội vụ đầu tiên của Việt Nam
Bộ trưởng Bộ Nội vụ đầu tiên của Việt Nam

Sau Cách mạng Tháng Tám, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cần một người vừa nắm pháp lý - hành chính, vừa tổ chức, giữ trật tự để dựng nền nhà nước trong thế đối mặt "ba giặc": đói, dốt, ngoại xâm. 6 nhiệm vụ cấp bách đã được nêu ngay tại phiên họp đầu tiên ngày 3/9/1945.

Ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập nội các và cử tướng Võ Nguyên Giáp (34 tuổi) làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ - một ghế then chốt của bộ máy mới.


Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp trong lần ra mắt Chính phủ Cách mạng lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 9/1945. (Ảnh: Tư liệu).
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp trong lần ra mắt Chính phủ Cách mạng lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 9/1945. (Ảnh: Tư liệu).

Tư liệu ngành nội vụ thể hiện, vị Bộ trưởng đầu tiên của Bộ có bằng cử nhân luật, từng hoạt động cách mạng bí mật, tổ chức lực lượng, nên đáp ứng yêu cầu vừa thiết lập khuôn khổ pháp lý, vừa xử trí các tình huống an ninh - trị an sau ngày giành chính quyền.

Mức độ tin cậy thể hiện ở việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền để Bộ trưởng Nội vụ thay mặt Chính phủ ký loạt 30 sắc lệnh trọng yếu ngay trong những tuần đầu. Sử sách ghi nhận, ông là "bộ trưởng duy nhất" được thay mặt Chính phủ ký các sắc lệnh quan trọng thời điểm ấy.

Chuỗi quyết sách sau đó cho thấy lựa chọn Bộ trưởng Bộ Nội vụ là chuẩn người - một người am hiểu luật, giỏi tổ chức để biến chủ trương thành hiệu lực pháp lý ngay lập tức.

Loạt quyết sách của vị tướng trong 6 tháng làm Bộ trưởng Nội vụ

Giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ đầu tiên từ 28/8/1945 đến 2/3/1946, ông Võ Nguyên Giáp được giao nhiệm vụ xây dựng trật tự an ninh, tổ chức bộ máy và ban hành khung pháp lý cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Các sắc lệnh ông ký hoặc được giao thi hành liên tiếp chạm tới mọi lĩnh vực cấp bách: bảo vệ Quốc khánh, bảo vệ tổng tuyển cử, soạn thảo Hiến pháp, cải cách thuế khóa, xóa mù chữ, kiến lập chính quyền địa phương và chế độ công vụ.

Ban bố thiết quân luật ở Thủ đô

Ngày 1/9/1945, để bảo đảm an ninh tuyệt đối cho lễ Tuyên ngôn độc lập, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chính phủ lâm thời ký Sắc lệnh số 03 đặt thiết quân luật tại Hà Nội. Văn bản quy định giới nghiêm từ 0h đến 6h, cấm mang khí giới nếu không có giấy phép; ai xâm phạm tính mạng, tài sản nhân dân sẽ bị xử theo quân luật. Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng được ủy nhiệm thi hành thiết quân luật. Mục đích được nêu rõ là bảo đảm an toàn trật tự cho ngày 2/9/1945. 

Bộ Nội vụ đánh giá đây là sắc lệnh an ninh - trật tự đầu tiên của chính quyền mới, được ban hành nhằm bảo đảm an toàn tuyệt đối cho sự kiện 2/9 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập.


Vườn hoa Ba Đình trong ngày 2/9/1945 (Ảnh: Tư liệu).
Vườn hoa Ba Đình trong ngày 2/9/1945 (Ảnh: Tư liệu).

Bãi bỏ thuế thân

Sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu chủ trương bỏ ngay các thứ thuế nặng nề của chế độ cũ.

Bốn ngày sau, thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký Sắc lệnh số 11 bãi bỏ thuế thân và định việc thay đổi dần chế độ thuế khóa. Văn bản nêu rõ, thuế thân là thứ thuế "vô lý", trái tinh thần chính thể dân chủ cộng hòa, việc bãi bỏ nhằm "đỡ gánh nặng cho dân chúng và hợp với công lý". 

Thuế thân dưới thời thuộc địa là một nguồn thu chủ lực, đánh thẳng vào mỗi trai đinh trong độ tuổi, từng tăng mạnh lên mức 2 đồng 50 (Bắc Kỳ) rồi áp dụng đồng hạng sau 1919. Nhiều nơi quy định làng phải nộp đủ thuế thân, tính trên đầu trai đinh, biến khoản thu này thành gánh nặng thường trực. 

Trong bối cảnh ngân khố cạn, bộ máy mới dựng, quyết định bãi bỏ thuế thân vẫn được ưu tiên ký ngay trong tuần lễ đầu sau Quốc khánh. Nhiều tổng thuật về chính sách tài chính sau Cách mạng Tháng Tám ghi nhận đây là quyết sách đầu tiên về thuế, tạo hiệu ứng "thu được lòng dân", củng cố niềm tin với chính quyền mới. Cách triển khai cho thấy vai trò của Bộ Nội vụ khi biến chủ trương thành văn bản pháp lý có hiệu lực tức thời, vừa mang ý nghĩa xã hội, vừa khẳng định tính chính danh của chính thể cộng hòa.

Theo các nhà sử học, sự kiện cho thấy phong cách điều hành nội trị giai đoạn khai quốc: giải quyết thẳng tay những di sản áp bức của chế độ cũ, đồng thời đặt nền tảng pháp lý cho trật tự mới. 

Tổ chức Tổng tuyển cử đầu tiên

Ngày 8/9/1945, Sắc lệnh 14-SL do Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký mở Tổng tuyển cử bầu Quốc dân Đại hội, xác định mọi công dân từ 18 tuổi, không phân biệt nam nữ, đều có quyền bầu và ứng cử. Quốc dân Đại hội có toàn quyền ấn định Hiến pháp - bước chuyển từ chính danh cách mạng sang chính danh hiến định.

Sắc lệnh đồng thời lập Ủy ban dự thảo thể lệ bầu cử, Ủy ban khởi thảo Hiến pháp và ấn định thời hạn hai tháng để tổ chức, giao Bộ Nội vụ thi hành. Trên nền đó, các văn bản tiếp theo hoàn thiện thể lệ và ấn định ngày bỏ phiếu 6/1/1946, bảo đảm cuộc bầu cử toàn quốc diễn ra trong bối cảnh khó khăn.

Các nhà sử học coi đây là bước ngoặt thể chế, đặt nền móng cho Quốc hội khóa I và Hiến pháp 1946.


Toàn cảnh buổi khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá I, ngày 2/3/1946. (Ảnh tư liệu: TTXVN).
Toàn cảnh buổi khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá I, ngày 2/3/1946. (Ảnh tư liệu: TTXVN).

Tổ chức chính quyền địa phương

Ngày 22/11/1945, Sắc lệnh 63-SL thiết lập mô hình chính quyền địa phương, ở xã và tỉnh có HĐND (do dân bầu) và Ủy ban hành chính; ở huyện và kỳ chỉ có Ủy ban hành chính (UBHC).

Sắc lệnh quy định cách bầu, nhiệm vụ, chế độ làm việc, cơ chế bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với UBHC (thí dụ Điều 48 về UBHC tỉnh; Điều 59 về UBHC kỳ).

Ngày 21/12/1945, Sắc lệnh 77-SL tổ chức chính quyền nhân dân ở thành phố, thị xã, hoàn thiện khối đô thị song song mô hình nông thôn, sau đó có 10-SL (23/1/1946) và 22A-SL điều chỉnh một số điều. 

Sắc lệnh 63, 77 cùng các văn bản sửa đổi đã xây dựng trọn vẹn bốn tầng nấc (kỳ - tỉnh - huyện - xã; kèm thành phố, thị xã, khu phố ở đô thị), xác lập cơ chế dân cử - hành chính, chuẩn y - giám sát - bất tín nhiệm, và đặc biệt là vai trò điều phối của Bộ Nội vụ trong ấn định thể lệ bầu cử, chuẩn y nhân sự, kiểm tra, tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm, kiến nghị giải tán khi cần.

Đây là dòng chảy gốc của quản trị địa phương hiện đại ngành nội vụ vẫn kế thừa, đó là lấy HĐND do dân bầu làm trục đại diện, UBHC/UBND làm trục điều hành, và Bộ Nội vụ là cơ quan thiết kế - giám sát thống nhất.

Cải cách công vụ, mở ra chế độ công chức

Ngày 13/9/1945, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký Sắc lệnh số 32, tuyên bố bãi bỏ hai ngạch "quan Hành chính" và "quan Tư pháp" của chế độ cũ. Văn bản quy định những người trong hai ngạch này "coi như là thôi việc kể từ ngày ký"; nếu còn cần dùng sẽ cải bổ vào ngạch khác tùy năng lực và hạnh kiểm. 

Sắc lệnh 32 nối tiếp Sắc lệnh 18 (ngày 08/9/1945) về bãi bỏ "ngạch học quan" do chính sách thuộc địa đặt ra, được gọi là đợt "dỡ đai" liên hoàn, chỉ trong tuần lễ sau Quốc khánh, nhằm xóa bỏ kết cấu quan lại cũ và chuyển sang nguyên tắc tuyển dụng theo năng lực - đạo đức. 

Về ý nghĩa dài hạn, các nghiên cứu quản trị công đánh giá chuỗi sắc lệnh 1945 đã đặt nền tảng thể chế công vụ, để rồi Sắc lệnh 188 (ngày 29/5/1948) lập chế độ công chức mới và thang lương chung, và Sắc lệnh 76 (ngày 20/5/1950) ban hành Quy chế Công chức hoàn chỉnh (7 chương, 92 điều). Dù thuộc giai đoạn sau, hai văn bản này được các cơ quan chính thống dẫn lại như sự tiếp nối trực tiếp của đợt cải cách mở đầu năm 1945.

Chiến dịch xóa mù chữ

Sau ngày Độc lập, khoảng 95% dân số Việt Nam không biết chữ, tỷ lệ này đối với phụ nữ còn lên tới 97-99%. Chính phủ lâm thời coi giặc dốt nguy cấp không kém giặc đói và giặc ngoại xâm. Nghị quyết phiên họp ngày 3/9/1945 xếp việc "mở chiến dịch chống nạn mù chữ" vào 6 nhiệm vụ cấp bách. 

Ba sắc lệnh được ký ngày 8/9/1945, đều đứng tên Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp, đã đặt nền tảng pháp lý cho chiến dịch này.

Trong đó Sắc lệnh số 17 thành lập Nha Bình dân học vụ trong Bộ Quốc gia Giáo dục, giao nhiệm vụ tổ chức "diệt giặc dốt" song song với mục tiêu "diệt giặc đói, giặc ngoại xâm".

Sắc lệnh này buộc mỗi xã, phường, nhà máy mở lớp bình dân buổi tối cho nông dân, thợ thuyền; chi phí do ngân sách địa phương và đoàn thể bảo trợ. Sắc lệnh 20 quy định học chữ Quốc ngữ là bắt buộc và không mất tiền cho mọi công dân từ 8 tuổi trở lên, đặt hạn một năm phải biết đọc, biết viết. 

Để giám sát, Sắc lệnh 16 tạo ngạch Thanh tra học vụ chuyên kiểm tra tiến độ tại cơ sở. Bộ Nội vụ, với hệ thống chính quyền địa phương vừa được thiết lập, giữ vai trò điều phối nhân lực, cấp phát giấy tờ, huy động hội đồng xã bảo đảm mỗi sắc lệnh được thực thi.


Lớp bình dân học vụ (Ảnh: Tư liệu).
Lớp bình dân học vụ (Ảnh: Tư liệu).

Chiến dịch lan rộng rất nhanh. Đến ngày 8/9/1946, cả nước đã mở 74.957 lớp, huy động 95.665 "chiến sĩ diệt dốt", giúp hơn 2,5 triệu người thoát mù chữ, khi dân số mới khoảng 22 triệu. 

Các nhà sử học đánh giá đây là "kỳ tích văn hóa" thời mới khai sinh đất nước. Chỉ trong 12 tháng, chính quyền mới không chỉ ban hành lộ trình cưỡng học, mà còn huy động cộng đồng, cấp phát sách vở "Quốc ngữ độc bản", lập hộp thư Bình dân học vụ để nhận báo cáo hằng tuần.

Chỉ trong nhiệm kỳ 188 ngày, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã tham mưu để Chính phủ ban hành hơn 100 sắc lệnh, trong đó có khoảng 30 văn bản do chính ông ký, tạo nền hành chính - pháp lý đầu tiên cho nhà nước mới.

Theo Hằng Nguyễn/Dân Trí

Đường dây nóng: 0909645589.

Phóng sự ảnh