Trong phiên thảo luận ở tổ về Dự án Luật Đầu tư công (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh cho rằng, việc sửa đổi Luật Đầu tư công nhằm khắc phục căn bản những khó khăn, hạn chế, vướng mắc, điểm nghẽn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và khơi thông nguồn lực cho phát triển.
Có thể nói, đầu tư công là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Những năm qua, hệ thống pháp luật quản lý vốn đầu tư công đã đáp ứng phần nào quá trình triển khai vốn đầu tư công vào các chương trình, dự án và các hạng mục đầu tư khác, góp phần tăng trưởng kinh tế và đảm bảo ổn định xã hội, an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, việc ban hành và thực hiện pháp luật về quản lý vốn đầu tư công đã và đang bộc lộ rất nhiều hạn chế.
Tôi thống nhất về sự cần thiết sửa đổi Luật. Về một số nội dung cụ thể, nội dung sửa đổi luật đã cụ thể hóa 5 nhóm chính sách lớn, thể hiện sâu sắc tinh thần đột phá, cải cách, phân cấp, phân quyền; nâng cao chất lượng chuẩn bị đầu tư; đơn giản hóa trình tự, thủ tục và bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật... phù hợp với thực tiễn triển khai thực hiện.
Ngoài những nội dung khác, qua nghiên cứu xin có một số ý kiến, nội dung trao đổi liên quan như sau:
Về việc tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập đối với tất cả các nhóm dự án (bao gồm cả dự án nhóm B, C). Nội dung này phù hợp nhằm tạo điều kiện cho các địa phương, chủ đầu tư chủ động và rút ngắn thời gian thực hiện, hoàn chỉnh các thủ tục đầu tư dự án và tiến độ thực hiện chung của từng dự án thành phần độc lập.
Tuy nhiên, cần xem xét, quy định cụ thể để đảm bảo công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư của dự án này phù hợp và thực hiện đồng bộ với quy mô, phạm vi đầu tư của dự án đầu tư xây dựng, đảm bảo không lãng phí nguồn lực trong quá trình thực hiện (đặc biệt là đối với các dự án đầu tư xây dựng mới các công trình lĩnh vực giao thông, thủy lợi,…theo quy hoạch, phải đầu tư theo tuyến, qua nhiều địa phương, khu vực khác nhau).
Ngoài ra, đối với nội dung này cũng xem xét, giao cho các địa phương quyết định việc tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập đối với từng trường hợp, dự án cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế của địa phương.
Về quy định thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ giao một UBND cấp tỉnh là cơ quan chủ quản thực hiện dự án trên địa bàn từ 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên. Nội dung này là cần thiết và hoàn toàn phù hợp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện phân cấp, phân quyền theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” và chủ động trong cân đối bố trí ngân sách địa phương.
Tuy nhiên, cũng cần nghiên cứu quy định cụ thể về phạm vi, quy mô dự án thực hiện trên địa bàn từ 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên.
Vì thực tế, bên cạnh các dự án có quy mô đầu tư lớn (nhóm A, B) thuộc phạm vi từ 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên vẫn có những dự án/công trình quy mô nhỏ (nhóm C), do địa phương quản lý nhưng thực hiện trên 2 đơn vị hành chính cấp tỉnh (như các công trình cầu, đường giao thông; công trình đê bao thủy lợi,…). Do đó, đề nghị nghiên cứu quy định tiêu chí, điều kiện để lựa chọn địa phương làm cơ quan chủ quản thực hiện dự án đối với những dự án này.
Về phân cấp thẩm quyền cho UBND các cấp quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm B, nhóm C do địa phương quản lý. Hiện nay, một số địa phương chưa có sự thống nhất trong phân cấp quyết định trương đầu tư dự án nhóm B, nhóm C do địa phương quản lý.
Do đó, việc phân cấp này là phù hợp nhằm rút ngắn thời gian trong quá trình chuẩn bị thủ tục đầu tư và tạo thuận lợi trong quá trình thực hiện dự án (đặc biệt là trong trường phải có thay đổi, phải điều chỉnh nội dung chủ trương đầu tư đã được phê duyệt).
Việc phân cấp sẽ tạo điều kiện để sớm phân bổ kế hoạch vốn, sớm phê duyệt, đưa các dự án vào khai thác, sử dụng, qua đó tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn vốn, kịp thời đáp ứng những nhu cầu phát sinh trên thực tế.
Đồng thời, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu, phát huy tính linh hoạt, chủ động của các cấp, các ngành trong quản lý và thực hiện kế hoạch đầu tư công phù hợp với năng lực quản lý và thực tế.
Đề nghị Chính phủ quan tâm đến việc tập huấn hỗ trợ, tư vấn pháp lý nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của các cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát kết quả quản lý và sử dụng đầu tư công. Quy định rõ ràng trách nhiệm vật chất của những người đứng đầu cơ quan chính quyền Nhà nước mỗi cấp trước kết quả quản lý đầu tư công của cấp đó.
Về bố trí vốn ngân sách địa phương để ủy thác thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (khoản 7 Điều 5).
Tại Nghị quyết số 111/2024/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, Quốc hội đã quyết nghị cho phép HĐND cấp tỉnh, cấp huyện được quyết định bố trí vốn ngân sách địa phương bao gồm vốn đầu tư công, vốn đầu tư phát triển khác, kinh phí thường xuyên, giao UBND cùng cấp uỷ thác cho Ngân hàng Chính sách xã hội tại địa phương để hỗ trợ thực hiện một số hoạt động của các chương trình mục tiêu quốc gia.
Việc bố trí vốn để cho vay giảm nghèo và giải quyết việc làm đã mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, đem lại hiệu quả và lợi ích rất lớn đối với người dân, người lao động nghèo.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh một số các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh, dẫn đến một số lao động bị thất nghiệp, mất việc làm, ảnh hưởng đến cuộc sống.
Nguồn vốn vay ưu đãi từ Chương trình đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm tệ nạn tín dụng đen, giúp cho người lao động có vốn tự tổ chức sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, tạo nguồn thu nhập ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình.
Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội và các địa phương, tính đến hết tháng 9 năm 2024, tổng vốn ngân sách địa phương đã bố trí hoặc cam kết bố trí thực hiện ủy thác qua chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tại địa phương theo quy định tại các Nghị quyết số 111 để cho vay các đối tượng chính sách của các chương trình mục tiêu quốc gia và một số đối tượng khác khoảng 1.177,229 tỷ đồng.
Chính vì thế, việc luật hóa quy định này nhằm tạo căn cứ pháp lý để các địa phương chủ động sử dụng nguồn lực của mình thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi và hỗ trợ người dân; tận dụng được năng lực, tổ chức bộ máy quản lý của Ngân hàng Chính sách xã hội trong triển khai thực hiện, không làm phát sinh thêm cơ cấu, tổ chức bộ máy mới.
Thống nhất ý kiến Ủy ban Tài chính ngân sách với đề xuất của Chính phủ, quy định trên nhằm tăng nguồn lực từ ngân sách địa phương để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi tại các địa phương.
Để bảo đảm cơ sở áp dụng trong xây dựng chính sách tín dụng ưu đãi của địa phương nhằm bảo toàn vốn, tránh thất thoát, đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định “Chính phủ quy định chi tiết điều kiện, tiêu chí, nguyên tắc bố trí vốn để ủy thác thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội; quy định về bảo toàn vốn ủy thác cho vay, thu hồi nợ, cơ chế cấp bù lãi suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý cho cơ quan được ủy thác...”.
Trên sơ sở đó, HĐND cấp tỉnh quyết định việc bố trí ngân sách địa phương, mức vốn, nội dung và hình thức thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi của địa phương để phù hợp với thực tiễn tại địa phương. Đồng thời, đề nghị rà soát các quy định về thẩm quyền của HĐND và UBND tại Điều 92 và Điều 93 của dự thảo Luật để bảo đảm thống nhất với quy định của Luật Ngân sách nhà nước đang được sửa đổi.
B.THANH-Đ.THI (ghi)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin