Những giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với nhân loại và cách mạng Việt Nam

05:10, 31/10/2017

Một thực tế lịch sử không thể phủ nhận là, chỉ trong một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, trong điều kiện phải đương đầu với các âm mưu và thủ đoạn chống phá vô cùng tinh vi và xảo quyệt của các thế lực thù địch

Một thực tế lịch sử không thể phủ nhận là, chỉ trong một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, trong điều kiện phải đương đầu với các âm mưu và thủ đoạn chống phá vô cùng tinh vi và xảo quyệt của các thế lực thù địch, Liên Xô đã đạt được những thành tựu vĩ đại chưa từng có trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, khoa học- kỹ thuật, văn hóa- giáo dục, quốc phòng- an ninh, từ đó có ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình phát triển của thế giới trong thế kỷ XX.

Những giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười Nga

Năm nay, bằng những hình thức và quy mô khác nhau, nước Nga và nhiều nước trên thế giới tổ chức kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917- 7/11/2017).

Theo các nhà nghiên cứu, có 2 nguyên nhân dẫn tới Cách mạng Tháng Mười ở Nga:

(1) Nước Nga là khâu yếu nhất trong toàn bộ hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa; bởi giai cấp tư sản Nga chỉ mới lật đổ chế độ Nga hoàng (còn gọi là Sa hoàng) trong cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917, chưa đủ điều kiện để trở thành giai cấp tư sản mạnh, có ảnh hưởng trong toàn xã hội.

(2) Cách mạng Tháng Mười chỉ có thể nổ ra ở Nga là do được kế thừa bản sắc văn hóa và tinh thần Nga.

Do đó, có thể nói, Cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng vừa mang tính quốc tế, vừa mang tính dân tộc Nga rất sâu sắc.

Cách mạng Tháng Mười đã để lại những giá trị trường tồn đối với lịch sử văn minh của nhân loại. Đó là:

(1) Phá vỡ khâu yếu nhất trong hệ thống chính trị và kinh tế của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, tạo ra kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của loài người.

Đó là kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

(2) Lần đầu tiên, V.Lenin đề ra mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga. Theo đó, chủ nghĩa xã hội không xây dựng từ con số không mà là kế thừa những kinh nghiệm xây dựng và phát triển kinh tế tốt nhất của chủ nghĩa tư bản.

Vì thế, trong chính sách kinh tế mới của V.Lenin áp dụng cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.

(3) Lần đầu tiên trên thế giới, chính quyền, nhà nước chuyển từ trong tay thiểu số người bóc lột sang tay đa số người lao động bị bóc lột, vươn lên làm chủ vận mệnh của mình và xã hội.

(4) Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là động lực mạnh mẽ cổ vũ các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột của giai cấp phong kiến, tư sản, tự cứu lấy mình và giải phóng mình mà còn là xung lực mạnh mẽ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển, lan tỏa nhanh và mạnh sang Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ Latin.

(5) Biến nước Nga Sa hoàng lạc hậu thành một siêu cường đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa, trở thành trụ cột của hòa bình và an ninh quốc tế, là chỗ dựa cho hàng trăm dân tộc bị áp bức, đứng lên chống ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc.

(6) Có ảnh hưởng và tác động hình thành phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, quyền con người ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản đương đại, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh mô hình và chính sách phát triển.

Sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ, nhằm vào Liên Xô và Cách mạng Tháng Mười càng chứng tỏ những giá trị to lớn của cuộc cách mạng này.

Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với thế giới trong giai đoạn hiện nay

Hiện nay, thế giới đang trải qua cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu.

Do bị lâm vào cuộc khủng hoảng hệ thống, chủ nghĩa tư bản không thể hóa giải được những nguy cơ và thách thức mang tính toàn cầu:

(1) Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày một lớn.

(2) Nạn đói đang đe dọa hàng trăm triệu người trên khắp các châu lục.

(3) Nạn ô nhiễm môi trường và hiện tượng Trái đất ấm lên trên phạm vi toàn cầu.

(4) Nguy cơ chủ nghĩa khủng bố trở thành hiểm họa mang tính toàn cầu.

(5) Cuộc chạy đua vũ trang diễn ra ngày một sâu rộng, thu hút nguồn lực của cải và vật chất vô cùng lớn.

(6) Khát vọng ngày càng lớn của người dân trên khắp các châu lục được phát triển tự do và độc lập trong hòa bình; được phát triển hài hòa giữa vật chất và tinh thần, công bằng và dân chủ.

(7) Chủ quyền quốc gia của nhiều nước bị xâm phạm bất chấp Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế.

(8) Chiến tranh và xung đột đã và đang diễn ra với tần suất ngày một lớn, đe dọa sự phát triển ổn định đối với nhiều khu vực trên thế giới.

Trong khi đó, một thực tế lịch sử không thể phủ nhận là, chỉ trong một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, trong điều kiện phải đương đầu với các âm mưu và thủ đoạn chống phá vô cùng tinh vi và xảo quyệt của các thế lực thù địch, Liên Xô đã đạt được những thành tựu vĩ đại chưa từng có trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, khoa học- kỹ thuật, văn hóa- giáo dục, quốc phòng- an ninh, từ đó có ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình phát triển của thế giới trong thế kỷ XX.

Trong đó, trước hết phải kể đến vai trò của Liên Xô trong việc lần đầu tiên xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa không có người bóc lột người; khai phá con đường của loài người chinh phục vũ trụ;

lập nên chiến công vĩ đại đánh bại chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt, cứu loài người khỏi thảm họa diệt chủng và tạo tiền đề cho hàng loạt quốc gia khác trên thế giới đứng lên giải phóng và thoát khỏi ách nô lệ của chế độ thực dân cũ và mới.

Vì thế, giá trị và ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với nhân loại trong giai đoạn hiện nay.

Sự kiện Liên Xô tan rã không phải là do “sai lầm lịch sử” của Cách mạng Tháng Mười

Sau khi Liên Xô- sản phẩm ra đời từ của Cách mạng Tháng Mười- bị tan rã vào ngày 26/12/1991, trên thế giới cũng như ở nước Nga hình thành 2 luồng tư tưởng trái ngược nhau.

Một luồng ý kiến cho rằng cùng với sự sụp đổ Liên Xô, lý tưởng về chủ nghĩa xã hội do Cách mạng Tháng Mười khởi xướng “đã chết”.

Thậm chí, có không ít ý kiến cho rằng Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, là “thảm kịch lịch sử ngẫu nhiên”.

Vì thế, nhiều nước trước đây thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa không tổ chức kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười.

Một luồng ý kiến khác cho rằng sự sụp đổ Liên Xô không phải là do lý tưởng về chủ nghĩa xã hội, là “sai lầm của lịch sử” và do đó những giá trị của Cách mạng Tháng Mười vẫn trường tồn cùng với tiến trình lịch sử đi lên của nhân loại.

Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Marx- Lenin để nhìn nhận khách quan về lịch sử, có thể rút ra mấy nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, những hạn chế và khiếm khuyết của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô chậm hoặc không được khắc phục, đã trở thành cản trở đối với sự phát triển.

Cũng như bất kỳ mô hình phát triển nào của nhân loại đều tiềm ẩn trong đó những khiếm khuyết và hạn chế, cần được điều chỉnh và khắc phục trong quá trình phát triển. Đó là quy luật tất yếu.

Xét về bản chất, những hạn chế và khiếm khuyết của chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô không xuất phát từ những lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười và hoàn toàn có thể khắc phục được.

Điều này đã được minh chứng bằng thành tựu vĩ đại của Trung Quốc trong quá trình cải cách mở cửa và hội nhập quốc tế với mô hình “chủ nghĩa xã hội đặc sắc” cũng như sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.

Ở đó lý tưởng của chủ nghĩa xã hội từ Cách mạng Tháng Mười vẫn tiếp tục được phát triển và phát huy trong điều kiện mới.

Thứ hai, sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ và đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô.

Không ít người lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô hô hào trung thành với chủ nghĩa Marx- Lenin nhưng lại hiểu một cách giáo điều về học thuyết sáng tạo này.

Từ đó, một bộ phận không nhỏ lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xô Viết xa rời quần chúng, trở nên tha hóa và đánh mất niềm tin của người dân, đồng nghĩa với việc đánh mất vai trò lãnh đạo.

Thứ ba, sự phản bội lớn nhất và nguy hiểm nhất của tập đoàn lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Liên Xô do M.Gorbachev đứng đầu.

Trong đó, tập đoàn này đã thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với xã hội; cho phép hình thành các tổ chức chính trị và đảng đối lập và chấp nhận chế độ chính trị đa nguyên, đa đảng trong xã hội Xô Viết;

xuyên tạc, thậm chí xóa bỏ các giá trị lịch sử Liên Xô; loại bỏ các đảng viên có quan điểm chống lại đường lối “cải tổ” của M.Gorbachev, đưa các điệp viên ảnh hưởng của Mỹ và phương Tây vào cơ cấu quyền lực của Đảng và Nhà nước Liên Xô, từ trung ương tới các địa phương;

sử dụng khẩu hiệu “tư duy chính trị mới” để xóa bỏ ý thức hệ tư tưởng về chủ nghĩa xã hội, tạo ra quá trình “tự diễn biến” ngay trong lòng Đảng Cộng sản Liên Xô và xã hội Xô Viết;…

Thứ tư, chiến lược chống phá toàn diện của Mỹ và các nước phương Tây nhằm làm tan rã Liên Xô.

Ngay sau Cách mạng Tháng Mười, 14 nước tư bản, đứng đầu là Mỹ, tiến hành cuộc chiến tranh bao vây cấm vận kết hợp với “diễn biến hòa bình” để làm tan rã Liên Xô.

Ngay sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, Mỹ đã phát động Chiến tranh lạnh, thực chất là thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình để chống phá Liên Xô.

Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam

Về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Giống như Mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái đất.

Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam từ những tư tưởng trong bản Luận cương của V.I.Lenin “Về vấn đề dân tộc và dân tộc thuộc địa”.

Trên cơ sở bản Luận cương của V.I.Lenin, năm 1927 trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười- con đường duy nhất đúng đắn, Cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự”. 

Từ tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đào tạo các chiến sĩ cách mạng Việt Nam, tạo cơ sở để thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930.

Với đường lối đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cả dân tộc Việt Nam đứng lên giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chế độ phát xít, thực dân và phong kiến và tay sai gần 100 năm, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm vào ngày 2/9/1945, giành thắng lợi trong 2 cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp năm 1954 và đế quốc Mỹ xâm lược năm 1975.

Chính những vũ khí trang bị do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác viện trợ đã góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy địa cầu.

Sau kháng chiến chống thực dân Pháp, Liên Xô vừa giúp Việt Nam xây dựng nhiều công trình công nghiệp quân sự và dân dụng, vừa nhận đào tạo cho Việt Nam hàng ngàn chuyên gia và công nhân thuộc nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế- xã hội và văn hóa.

Đặc biệt, Liên Xô đã giúp đào tạo cho Việt Nam hàng ngàn sĩ quan và chuyên gia kỹ thuật, đồng thời đưa cố vấn quân sự sang giúp Việt Nam xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại.

Đồng thời, Liên Xô còn viện trợ cho Việt Nam các loại vũ khí hiện đại thời bấy giờ như máy bay, pháo và tên lửa phòng không, xe tăng, tàu chiến mà ngành công nghiệp của ta chưa thể sản xuất được.

Cơ sở vật chất- kỹ thuật và nguồn nhân lực do Liên Xô giúp ta xây dựng là một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc đối đầu thắng lợi với cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên cả hai miền Nam và Bắc nước ta.

Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước vào năm 1975, mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Liên Xô đã chuyển thành hợp tác cùng có lợi, nhưng với tinh thần hữu nghị, Liên Xô vẫn tiếp tục cung cấp cho Việt Nam các khoản viện trợ kinh tế lớn cho đến giữa những năm 1980. 

Nhận thức sâu sắc những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ sự kiện Liên Xô sụp đổ và hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Đảng ta đã kiên quyết khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) theo nguyên tắc chỉ đạo là:

đổi mới phải dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Marx- Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xá hội.

Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng không dao động, bi quan, đổi hướng, thay đổi mục tiêu, con đường đã chọn.

Đó vừa là tư tưởng, tình cảm, vừa là sự lựa chọn cách thức, bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng để từng bước hiện thực hóa con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn- con đường từ Cách mạng Tháng Mười.

Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã góp phần quan trọng khẳng định, những giá trị về tư tưởng và lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười vẫn còn nguyên giá trị trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Những thành tựu này đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Những thành quả ấy minh chứng cho đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Như vậy, bằng nhãn quan chính trị sáng suốt, cùng bản lĩnh và kinh nghiệm của 87 năm qua, Đảng ta sẽ tiếp tục phát huy tinh thần bất diệt của Cách mạng Tháng Mười; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước, từng bước hiện thực hóa mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

NGUYỄN SAN

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh