Hội nghị Fontainebleau thất bại tháng 9/1946. Từ bỏ chức vụ kỹ sư trưởng ở một hãng nghiên cứu- chế tạo máy bay với đồng lương tương đương 22 lạng vàng một tháng, kỹ sư Phạm Quang Lễ quyết định theo Bác Hồ về nước. Không mang theo của cải nào đáng giá, ông chỉ đem về hơn một tấn sách tài liệu trong đó có nhiều tài liệu, cẩm nang về thiết kế vũ khí, loại rất cần thiết cho
Đồng chí Nguyễn Văn Linh và Giáo sư Trần Đại Nghĩa (phải qua) tham dự Đại hội Liên hiệp Các Hội khoa học và kỹ thuật TP Hồ Chí Minh lần 1 (24/1/1986).
Hội nghị
Không mang theo của cải nào đáng giá, ông chỉ đem về hơn một tấn sách tài liệu trong đó có nhiều tài liệu, cẩm nang về thiết kế vũ khí, loại rất cần thiết cho ngành quân giới non trẻ của ta sau này.
Chuyến xe lửa Paris- Marseille có dành riêng một toa đặc biệt cho Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đoàn tùy tùng 6 người. Đông đảo bà con Việt kiều, đại diện Đảng Cộng sản Pháp kể cả vợ chồng Tổng Bí thư Maurice Thorez, các quan chức Pháp đến dự tiễn đưa Bác Hồ về nước.
Kỹ sư Phạm Quang Lễ lưu luyến tạm biệt
Cảnh vật và lòng người
Nhưng giờ đây, anh phải tạm biệt nó, chia tay với mọi người- đã một lần, anh thanh niên Nam Bộ đã trải qua một cuộc chia ly có cả niềm vui và nước mắt, khi tạm biệt mẹ, chị, người thân, quê hương... lên tàu đi du học- lần chia tay thứ hai này, anh đã trưởng thành về nhiều mặt.
Những ngày được tiếp xúc với Bác Hồ và đồng chí Phạm Văn Đồng vào dịp Hội nghị Fontainebleau đã cuốn hút tâm chí, đem đến cho anh cảm giác lạ thường, một tiếng gọi thiêng liêng vừa gần gũi bên tai, vừa xa vời bên kia đại dương. Tiếng gọi đó trùng hợp với hoài bão từng nung nấu trong anh, giờ đây đã trở thành hiện thực.
Trong lúc nhiều bà con, thanh niên Việt kiều tại Pháp đang rộn ràng, náo nức với quê hương thì kỹ sư Phạm Quang Lễ và 3 trí thức nữa được may mắn tháp tùng Bác trên đường về nước. Tất cả diễn biến như một giấc mơ đẹp.
Trên xe lửa, Bác Hồ đem bản tạm ước 14/9/1946 vừa ký với đại diện chính phủ Pháp ra trao đổi. Người giải thích nội dung, ý nghĩa và dự báo những khả năng có thể xảy ra. Kỹ sư Phạm Quang Lễ chăm chú lắng nghe, không phát biểu ý kiến gì.
Anh đang mải mê suy nghĩ về cuộc hành trình, một quyết định mạo hiểm, táo bạo của Bác chọn phương tiện tàu thủy do phía Pháp bố trí. Cuộc diễn du dài ngày trên biển cả mênh mông với đối phương thiếu thiện ý, liệu xác suất an toàn có đạt mức cao không? Nhất là đối với một lãnh tựu kính mến!
Bác Hồ vẫn thản nhiên, vui vẻ trò chuyện như có sẵn những cẩm nang để ứng phó với mọi tình huống. Anh tin vào sự sáng suốt của Người, nhưng vẫn thấy lo.
Đến Marseille, đoàn nghỉ lại. Bác dẫn mọi người đến thăm bà con Việt kiều, gặp gỡ những người lính thợ O.S (Ouvrier Spécialiste) và lính O.N.S (Ouvrier Non Spécialiste), nói chuyện động viên họ cố gắng học tập, trau dồi nghề nghiệp, tri thức, chuẩn bị ngày trở về xây dựng đất nước, khi cần sẽ thông báo.
Ngày 19/9/1946, từ cảng
Như để phô trương lực lượng hoặc sẵn sàng cho cuộc chiến ở Việt
Giáo sư Trần Đại Nghĩa (người đứng thứ ba bên trái) tại cuộc gặp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một số đại biểu dự Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc tại An toàn khu Việt Bắc ngày 1/5/1952.
Hơn một tháng trời sống chung với Bác trong cuộc hành trình trên biển cả, những người tháp tùng Bác được dự một lớp huấn luyện đặc biệt. Mỗi ngày 3 buổi: sáng, chiều, tối. Sau giờ ăn ngủ, giải trí riêng, mọi người quây quần bên Bác trò chuyện, bàn thảo thoải mái các chuyên đề do Người nêu lên: tình hình thế giới, trong nước, sự phát triển các phong trào cách mạng, nhiệm vụ trước mắt...
Khi tàu đi ngang qua các nước Á Rập, Châu Phi, Châu Á, Bác nêu lên tổng quát các sự kiện lớn của địa phương. Những câu chuyện kể nhẹ nhàng, thoải mái được liên hệ, phân tích như một bài học ngoại khóa bổ ích.
Vốn quen công tác huấn luyện, Bác nói ngắn gọn, súc tích, ít lời nhiều ý, có sức truyền cảm mạnh. Sau mỗi lần sinh hoạt, Người nêu lên các gợi ý để mọi người suy nghĩ chuẩn bị trước để buổi sau trao đổi tiếp.
Trong số 6 người đi theo lúc bấy giờ, duy nhất chỉ có kỹ sư Phạm Quang Lễ quê ở Nam Bộ. Phải chăng vì vậy, ngoài giờ sinh hoạt chung, thỉnh thoảng Bác gặp riêng, hỏi han, trao đổi từ việc gia đình, cá nhân đến khơi gợi những tình cảm đối với quê hương Nam Bộ ruột thịt.
Niềm da diết, trăn trở của Người thể hiện trên đôi mắt, giọng nói khi kể lại âm mưu chia cắt mảnh đất thiêng liêng của thực dân Pháp và bọn bù nhìn tay sai diễn ra cách đó mấy tháng, khi Người đang trên đường đến Paris.
Bác hỏi kỹ sư Lễ những kinh nghiệm về cuộc chiến thứ hai ở Châu Âu, khả năng và thực lực của quân đội Pháp hiện tại... Những câu chuyện trao đổi gợi lên cho kỹ sư Lễ hình dung phần nào các vấn đề đặt ra khi về Tổ quốc.
Lớp huấn luyện đặc biệt- như kỹ sư Lễ xác định sau này- không có chương trình định trước, chẳng có bài giảng theo lớp chính quy, chỉ do Bác Hồ trực tiếp tổ chức trong lòng đối phương, đã đem lại cho người trí thức một hành trang đầy đủ trước khi bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ.
Ngày 20/10/1946, tàu cập bến Hải Phòng. Cuộc đón rước Bác Hồ và đoàn tùy tùng diễn ra tại thành phố Cảng khá trọng thể. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước từ Hà Nội xuống tận nơi.
Mọi người mừng rỡ gặp lại, ôm hôn cảm động bắt tay nhau. Đi giữa hai hàng lính danh dự của Pháp rồi tiếp đến những bộ mặt rạng rỡ, vui mừng của cán bộ, đồng bào ruột thịt, trong đó có cả những thành viên ở Hội nghị Fontainebleau nữa, kỹ sư Phạm Quang Lễ nghẹn ngào xúc động.
Một sự trùng hợp khá thú vị, sau này Giáo sư Trần Đại Nghĩa kể lại với vợ và gia đình- ngày 20 tháng 10 cũng là ngày kỷ niệm thành lập Hội Phụ nữ Việt Nam, ngày trở về Tổ quốc của Giáo sư khó quên được.
Về đến Thủ đô Hà Nội, hầu hết những người đi theo Bác Hồ lúc bấy giờ đều có dịp liên lạc, tiếp xúc với người thân sau thời gian xa cách. Riêng kỹ sư Lễ không có may mắn đó. Quê hương Nam Bộ đang chìm trong khói lửa, cách xa nghìn trùng.
Nghỉ ngơi, tìm hiểu tình hình trong nước một thời gian ngắn, kỹ sư Lễ cùng cán bộ đi lên chiến khu Giang Trân- Thái Nguyên, nơi Giáo sư Tạ Quang Bửu đã hướng dẫn các nhà khoa học trẻ và công nhân nghiên cứu các quả đạn bazoka của Mỹ còn sót lại. Vốn am hiểu một phần những nguyên lý, cấu tạo các loại vũ khí, kỹ sư Lễ bắt tay ngay cùng tham gia nghiên cứu.
Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và các vùng tạm chiếm của quân đội Pháp đang ở thời điểm sôi động, căng thẳng. Giặc Pháp khiêu khích nhiều nơi.
Tại Thủ đô, Bác Hồ vẫn trầm tĩnh, bình thản. Một mặt tỏ thái độ thiện chí, gặp gỡ, trao đổi với đối phương, mặt khác chỉ đạo chuẩn bị khẩn trương để đối phó.
Ngày 5/12/1946, kỹ sư Phạm Quang Lễ từ Thái Nguyên được gọi về Hà Nội gặp Bác Hồ, nhận chức vụ Cục trưởng Cục Quân giới Bộ Quốc phòng và cái tên mới hiện nay: Trần Đại Nghĩa.
Trong giờ phút nghiêm trọng của đất nước, Bác vào Trung ương đã “chọn mặt gửi vàng” còn riêng anh luôn đặt niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt, sự giúp đỡ chăm sóc của cấp trên, của tập thể để hoàn thành tốt chức trách được giao.
Nói về các sự kiện của ngành Quân giới, trong Hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nêu lên chủ trương của Trung ương và Bác Hồ đã đề cập đến việc xây dựng công nghiệp vũ khí từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công.
Nhưng: “Với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp, vật liệu, công nghiệp chế tạo chưa có, lại bị chiến tranh tàn phá. Chúng ta chưa có cơ sở vật chất cho công nghiệp chế tạo vũ khí ra đời. Vì vậy khi Chính phủ hỏi ý kiến một số nhà khoa học, trí thức cao cấp trong nước về sản xuất vũ khí thì nhiều anh em cho là ta chưa làm được...”
Đến cuối năm 1946, nhiệm vụ này được giao cho đồng chí Trần Đại Nghĩa và tập thể cán bộ quản lý trong nước lúc bấy giờ.
Chính Giáo sư Trần Đại Nghĩa là người đã đem lại cho đội ngũ cán bộ khoa học trẻ của ta lúc bấy giờ những kiến thức cơ bản về lý luận và công nghệ sản xuất vũ khí.
Những thành tựu sáng tạo, độc đáo về nghiên cứu, chế tạo vũ khí trong thời kỳ chống Pháp được đánh đổi bằng mồ hôi, xương máu, trí tuệ của đông đảo đội ngũ, kể cả sự dũng cảm, mưu trí của các chiến sĩ sử dụng vũ khí ngoài mặt trận.
Phong cách lao động nghiên cứu của người lãnh đạo ngành có một tác dụng quan trọng quyết định mọi thắng lợi. Nhà trí thức Việt kiều mới về nước nêu cao tấm gương sáng về tập trung trí tuệ cao độ, làm việc hết mình, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng yêu nước của Bác Hồ giáo dục, rèn luyện.
Năm 1952, tại Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua toàn quốc ở Việt Bắc, kỹ sư Trần Đại Nghĩa được tuyên dương Anh hùng Lao động trí óc, một vinh dự lớn cho các tầng lớp trí thức lúc bấy giờ cũng như bản thân anh.
Trong một bài viết ngắn, Bác Hồ có đánh giá: “Kỹ sư Nghĩa rất giỏi khoa học máy, nhưng khi thực hành không “máy móc”.” |
(Khoa học Phổ thông, 8/1997)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin