Yêu nước là truyền thống đạo lý của dân tộc ta. Xuất phát từ hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, mỗi người có cách yêu nước khác nhau. Bằng hành động sáng tạo phong phú, dám nghĩ, dám làm vượt qua tầm vóc tuổi trẻ, có người sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng cao đẹp, có người âm thầm, lặng lẽ vượt lên số phận nghèo khó, trở ngại để rồi trở thành người hữu dụng cho đất nước, gắn bó với
Bác Hồ làm việc với Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa. Ảnh Tư liệu
Yêu nước là truyền thống đạo lý của dân tộc ta. Xuất phát từ hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, mỗi người có cách yêu nước khác nhau. Bằng hành động sáng tạo phong phú, dám nghĩ, dám làm vượt qua tầm vóc tuổi trẻ, có người sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng cao đẹp, có người âm thầm, lặng lẽ vượt lên số phận nghèo khó, trở ngại để rồi trở thành người hữu dụng cho đất nước, gắn bó với quê hương.
Còn Phạm Quang Lễ- Trần Đại Nghĩa- người con ưu tú của Vĩnh Long, tấm gương chí hiếu và hết lòng vì đại nghĩa của ông mãi mãi là nguồn cổ vũ đối với chúng ta.
Tấm lòng chí hiếu
Hồi tôi còn nhỏ học tiểu học, được ông cậu ruột(1) giáo dục nhắc đến Phạm Quang Lễ là thần đồng học giỏi. Các thầy cô giáo kể rằng ông rất thông minh, nhớ dai luôn thi đỗ đầu khoa bảng. Khi tham gia kháng chiến chống Mỹ, tôi được các đồng chí hồi kết thuật lại về vai trò khoa học của ông góp phần chống Pháp và đánh bại cuộc chiến tranh của giặc Mỹ leo thang phá hoại miền Bắc.
Câu chuyện Phạm Quang Lễ- Trần Đại Nghĩa đã in sâu vào trí nhớ thời tuổi trẻ của tôi. Mãi đến sau ngày giải phóng, tôi có dịp may mắn, nhiều lần gặp ông tại nhà riêng đường Hàng Chuối Hà Nội và tại quê hương Vĩnh Long.
Vốn con nhà nghèo, Lễ sinh ra và lớn lên từ quê ngoại, làm ruộng ở xã Hòa Hiệp, huyện Tam Bình, thuộc vùng nông thôn sâu cạnh bờ sông Măng Thít, cách tỉnh lỵ Vĩnh Long hơn 20 cây số. Thuở nhỏ, Lễ ở nhà với mẹ, học trường làng. Cha là thầy giáo Phạm Văn Mùi dạy học ở tỉnh lỵ, lớn lên Lễ theo cha học trường tỉnh. Chiều thứ năm, chủ nhật, Lễ về quê bằng tàu đò cập bến trước nhà hoặc đi xe đò, rồi phải đi đò dọc vài cây số mới đến nhà.
Kiểu sản xuất nhỏ nông nghiệp, với khoảnh ruộng mảnh vườn, mức thu nhập gia đình Lễ rất thấp, tiện tặn lắm mới đủ ăn, đủ mặc.
Xã hội thuộc địa và phong kiến không khuyến khích việc học, cho rằng “nghèo vác giạ đi vay lúa chớ ai vác giạ đi vay chữ” biến nông dân dốt nát để họ dễ bề thống trị.
Hiểu được điều đó, ông Phạm Văn Mùi ân cần giáo dục con, coi lễ nghĩa làm trọng, làm thước đo lẽ sống ở đời. Có lần đi chơi dọc bờ sông Măng Thít, ông “khuyên con phải ráng học, chỉ có học mới thoát nghèo và có học sau này có việc làm giúp ích cho gia đình và xã hội”.
Còn bà mẹ Lý Thị Diệu lấy việc cụ thể khuyên dạy con: “Cỡ tuổi con phải đi bắt ốc, bắt cua để sống, ít trẻ đi học. Con thấy có ai không đi học mà làm nên sự nghiệp bao giờ?”
Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa.
|
Từ đó, Lễ là người con ngoan, không để cha mẹ nhắc nhở(2), mà luôn tỏ ra người con hiếu học. Trong việc học, cái gì không rõ, không biết là hỏi, hỏi để biết thấu đáo. Có người kể rằng: Làm toán đố, Lễ còn nghiên cứu nhiều cách giải đáp kết quả.
Có khi cùng bài toán thầy giải kiểu này, Lễ tìm giải cách khác tạo sự phong phú hiểu biết về toán học, ngay từ cấp trung học. Những con số, những bài toán dường như trong đầu óc Lễ sắp xếp thứ lớp thuộc lòng; hỏi, trả lời nhanh chóng vì thế có người gọi Lễ là thần đồng toán học.
Ngoài việc chăm học, Lễ còn là người con hiếu thảo trong gia đình, được sự chăm sóc, chiều chuộng nhưng không vì thế mà đua đòi, ỷ lại. Trái lại Lễ càng tỏ ra người con ngoan một lòng thương mẹ kính cha, lễ phép cung kính với người lớn tuổi.
Ngay khi Lễ còn trẻ, người bạn của ông giáo Mùi giới thiệu Lễ với ông Vương Văn Ngưu- một Việt kiều về nước: “Lễ là con người thành thật, cởi mở, trầm lặng, chín chắn, đầy nhiệt tình, quả quyết và đôn hậu; hiểu biết rộng rãi nhưng rất khiêm tốn, lễ độ!(3)”
Qua sự giới thiệu, Lễ được mọi người có niềm tin và chú ý. Cha bị bệnh kéo dài, Lễ luôn bên cạnh. Có lần ông giáo Mùi nói như trăng trối: “Ba biết ba không còn sống bao lâu nữa. Nhưng biết làm sao được. Con phải ráng học hành tấn tới. Thật tiếc, ba không được sống để tiếp tục dạy dỗ con. Ba tin con học hành sẽ thành đạt. Con đừng buồn vì vắng ba. Sau này, con sẽ là trụ cột trong gia đình thay ba nuôi má!” Cả gia đình nghe, xúc động và khóc nức nở.
Nhớ lời cha dặn, Phạm Quang Lễ vượt qua nỗi đau tang chế người cha với tuổi đời vừa lên bảy. Cố học, Lễ thi đỗ vào Trường Trung học Mỹ Tho và sau đó đỗ vào Trường Pétrus Ký Sài Gòn, được học bổng toàn khóa.
Bao học sinh khác số tiền học bổng không đủ chi xài, còn được gia đình cho thêm, nhưng đối với Phạm Quang Lễ tiền lãnh học bổng tiện tặn chi xài, ngoài tiền ăn, tiền mua sách vở, bút mực, tàu xe, còn chắt mót một phần ba số tiền học bổng gởi về cho mẹ và chị ở quê nhà. Được các “Mạnh thường quân” khuyến khích du học và giúp số tiền bạc, đối với Phạm Quang Lễ như trời hạn gặp mưa.
Các bác sĩ Lý Minh Ký, Khương Hữu Long, kỹ sư Lâm Văn Bổn, nhà báo Vương Văn Ngưu giúp vật chất và tinh thần, với lời căn dặn: ‘’Con cố gắng học để có kiến thức, có điều kiện tiến thân. Học là chìa khóa mở cửa giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội’’. Những lời dặn đó giúp cho Lễ có thêm nghị lực phấn đấu học hành và nuôi dưỡng ý chí thành đạt.
Ở đất Pháp, nơi đô hội phồn hoa đầy quyến rũ, Lễ thấy choáng ngợp nhưng không vì thế lay chuyển tấm lòng. Cũng như hồi ở trong nước, Lễ càng cố học dành dụm tiền học bổng chi mỗi tháng khoảng hai phần ba, còn một phần ba gởi về cho mẹ và chị. Việc làm hiếu đễ này bà mẹ Lý Thị Diệu và người chị Phạm Thị Nhẫn đầy cảm kích và luôn tin tưởng vào người con, người em nơi đất khách quê người.
Một vấn đề mà Phạm Quang Lễ rất tâm đắc là theo người mẹ kể lại từ khi sanh ra đến lớn lên Lễ luôn được sự giúp đỡ chí tình của bà con xóm giềng. Từ lúc bà mẹ sanh không lấy tiền, đến chén cơm manh áo đều được bà con tận tình chăm sóc giúp đỡ. Đến khi học hành có “Mạnh thường quân” hết lòng bảo bọc.
Thời buổi khốn khó, dân nghèo cưu mang, thiếu tiền bạc nhưng tình thương yêu giúp đỡ nhau thì rất dồi dào. Phạm Quang Lễ cũng từng chứng kiến cảnh người nghèo khổ nhảy từ cầu Thiềng Đức xuống sông tự tử, do cuộc đời bị bế tắc.
Chính sách xã hội đầy bất công, luôn bị áp bức bóc lột, đưa người dân lao động vào thế cùng cực, quẩn bách. Hơn hai năm làm thơ ký tòa sứ Mỹ Tho, một công chức quèn nhưng Lễ cũng hiểu được bộ mặt thật của kẻ thống trị đối với dân lành.
Khi sang Pháp du học, có điều kiện hiểu rõ thực trạng tại nơi chính quốc, người bị bóc lột, bị thống trị bao giờ cũng khổ cực lầm than. Chỉ có đường lối cách mạng đánh đuổi đế quốc, nhân dân được tự do độc lập xây dựng một xã hội mới thì đời sống người lao động mới được cơm no áo ấm, hạnh phúc thật sự.
Qua sách báo, nghiên cứu tìm hiểu, Phạm Quang Lễ nghĩ đến dân đến nước mà ngày nay gọi là “hiếu với dân”, càng suy nghĩ và trăn trở việc thọ ơn dân thì phải làm gì để đáp lại lời mong ước của dân. Cho nên khi Bác Hồ kêu gọi về nước tham gia kháng chiến, như đêm tối có đuốc soi đường, Phạm Quang Lễ không phút do dự mà đáp lại: “Thưa Bác, tôi đã chuẩn bị từ lâu rồi. Tôi rất sẵn sàng!”
Vì nghĩa lớn
Có lần tôi gặp ông Trần Đại Nghĩa về thăm quê. Trong buổi nói chuyện thân mật, ông tâm sự: Hồi tuổi trẻ, cha mẹ khuyên cố gắng học để may ra có việc làm thoát nghèo. Đọc qua các sách lịch sử, khái niệm yêu nước còn chung chung. Những năm ở Pháp, đặc biệt năm 1936, lần đầu tiên được biết tên tuổi Nguyễn Ái Quốc với câu nói bất hủ: “Chỉ có chủ nghĩa Mác- Lê-nin mới cứu được Việt
Từ đó tôi thường xuyên tìm đọc sách báo tiến bộ cũng như những tài liệu của Đảng Cộng sản Pháp do Hội Việt kiều Pháp phổ biến. Đến năm 1946, có dịp đón Bác Hồ đi dự Hội nghị Fontainebleau, mới biết Nguyễn Ái Quốc chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một danh dự lớn cho nước ta.
Đã một trăm lẻ hai ngày được cận kề bên Bác, trong đó có sáu mươi hai ngày ở
Đặc biệt, khi Bác chọn tên Trần Đại Nghĩa đặt cho với lời căn dặn hãy noi gương các bậc tiền nhân, nêu cao trách nhiệm đối với dân, với nước thì tâm thức Lễ hằng lưu nhớ vì đại nghĩa quyết thắng mọi trở ngại khó khăn. Lời dặn dò quý báu đó làm cho Trần Đại Nghĩa tăng thêm nghị lực và luôn suy nghĩ:
Giáo sư Trần Đại Nghĩa cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tham quan triển lãm vũ khí tại Đại hội lần thứ I của Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Vấn đề thứ nhất là từ bỏ cuộc sống vật chất xa hoa; tiền tài, danh vọng quyến rũ. Với chức kỹ sư trưởng chế tạo máy bay, đồng lương mỗi tháng 5.500 Franc, tương đương 22 cây vàng, cuộc sống ổn định, giàu có sang trọng ở thành phố hoa lệ, sẽ có vợ đẹp con xinh.
Nhưng đối với Lễ, mọi thứ đó không có ý nghĩa gì khi nước nhà còn đắm chìm trong nô lệ, dân tộc bị áp bức, lầm than. Chính những năm ra làm công chức, làm cho các công ty, hãng xưởng, ông đã thấy rõ bộ mặt thật, hiểu rõ thế nào là một dân tộc bị thống trị, thế nào là khát vọng độc lập tự do!
Mấy đêm ở
Nhớ lời cha dặn trước phút lâm chung: “Con phải ráng học hành tấn tới. Sau này có dịp thay ba nuôi mẹ và chị con”, ông day dứt. Người chị duy nhất không may bị chết đuối, chỉ còn một mình mẹ, giờ đây ai chăm sóc, dưỡng nuôi lúc tuổi già? Một bên là mẹ và một bên là dân tộc, đất nước, Bác Hồ? Trước hai ngã đường: Tình mẹ thiêng liêng và nghĩa cả đối với Tổ quốc phải chọn dứt khoát một bên thế nào? Lễ rơi nước mắt trong đêm dài, thấm ướt cả khăn tay.
Sau mười một năm (đến năm 1955), đoàn cán bộ tập kết ra Bắc hỏi thăm mới biết mẹ từ trần năm 1941! Vậy là ông quyết định Tổ quốc phải trên hết!
Từ tấm lòng hiếu học, hiếu đễ đến hiếu nghĩa với dân, Phạm Quang Lễ dấn thân vào cuộc hành trình cách mạng: Chỉ có cứu nước mới có điều kiện cứu dân. |
Nếu biết đường đời bằng phẳng hết
Anh hùng hào kiệt có ai hơn?
Hay ngạn ngữ có câu: “Có gian nan, thành công mới vinh quang!” Lễ nhắc thầm trong bụng và rất tâm đắc.
Trong những ngày đầu tham gia kháng chiến với môi trường, việc làm chưa quen, Trần Đại Nghĩa phấn đấu cái gì cũng phải học: từ cách đi đứng, ăn mặc, cách ngủ rừng, cách sống hòa nhập cùng đồng đội, với tập thể và đồng bào, cái gì cũng học từ trong thực tế sinh động mà sách vở không có.
Theo Phạm Quang Lễ, cuộc sống trong kháng chiến đòi hỏi sức chịu đựng và tinh thần tự lực cao, nhưng có nhiều sự lý thú, quý báu trong cuộc sống. Nếu không ở chiến khu thì không bao giờ thấu hiểu được ý nghĩa tình đoàn kết sống chết bên nhau như ruột thịt.
Vấn đề thứ ba là Trần Đại Nghĩa có quá trình mang hoài bão ước mơ lớn. Về nước là có điều kiện cơ hội thực hiện nhiệm vụ vì nghĩa lớn. Hơn mười năm ở Pháp học tập tốt nghiệp ba bằng kỹ sư cầu đường, kỹ sư điện, kỹ sư chế tạo máy bay, với sáu chứng chỉ về khoa học cơ bản, toán lý hóa, đó là chưa kể việc bí mật nghiên cứu các sách, tài liệu chế tạo vũ khí.
Trong thời gian lặng lẽ đầy tâm huyết, ông suy nghĩ chế tạo vũ khí, vì lịch sử nước ta đã chứng minh trải qua mười bốn cuộc chiến tranh chống xâm lăng. Các nghĩa sĩ đổ biết bao xương máu, hy sinh do nhiều nguyên nhân, trong đó do thiếu vũ khí.
Trường Lưu Văn Liệt, Phường 1, TP Vĩnh Long ngày nay là nơi đồng chí Trần Đại Nghĩa học bậc tiểu học ngày 19/8/1923.
Về nước là một cơ hội có điều kiện thực hiện hoài bão lớn. Sự giao việc của Bác Hồ trong thời gian chống Pháp, Trần Đại Nghĩa cùng tập thể nhà khoa học đã nghiên cứu chế tạo thành công loại vũ khí mới như bazoka, ĐKZ, SKZ, bom bay và nhiều loại vũ khí khác có sức công phá lớn, bắn cháy xe tăng, xe bọc thép, hủy diệt tàu binh, đồn bót, hệ thống phòng thủ kiên cố của địch, gây cho bọn địch hoang mang và cuối cùng chúng chuốc lấy thất bại.
Trong chống Mỹ, chúng khoe khoang khoác lác, ca ngợi vũ khí và phương tiện hiện đại tối tân thí điểm ở Việt
Trước đòn phản công đầy bất ngờ của ta, biến bầu trời Hà Nội thành Điện Biên Phủ trên không, nhiều máy bay tiềm kích, máy bay B52 của địch tan xác, cuộc chiến tranh leo thang của Mỹ ở miền Bắc bị thất bại hoàn toàn.
Trần Đại Nghĩa với tấm lòng vì nghĩa lớn, được Bác Hồ giao nhiệm vụ đã hoàn thành một cách vẻ vang, góp phần đánh thắng hai cuộc chiến tranh của đế quốc, giành thắng lợi.
Trong tình hình đất nước hội nhập và phát triển, tấm gương Trần Đại Nghĩa chí hiếu, hết lòng vì nghĩa lớn là bài học quý báu, sáng giá cả hôm nay và mãi mãi về sau, luôn luôn đầy sức sống trong thế hệ Hồ Chí Minh.
15/5/2013
(1)Nguyễn Thế Hiển sinh năm 1912, ở xã Xuân Hiệp cặp bên xã Hòa Hiệp.
(2)Có lần Lễ bỏ học đi chơi với bạn bè.
(3)Sách Viện sĩ Trần Đại Nghĩa của Nguyễn Văn Đạo, NXB Trẻ T94.
Tài liệu:
- Sách Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, NXB Trẻ- 2002
- Người mang tên Đại Nghĩa, NXB Cửu Long- 1990
- Tấm lòng nhân dân Cửu Long với Bác Hồ, NXB Cửu Long- 1990
- Các tài liệu Báo Nhân Dân, Báo Vĩnh Long
- Các nhân vật sống, thân nhân ông Trần Đại Nghĩa.
NGUYỄN CHIẾN THẮNG
(Nguyên Ủy viên Thường vụ- Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin