Nhân kỷ niệm 30 năm ngày mở ký Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, mới đây Việt Nam đã cho lưu hành tại Liên hợp quốc Báo cáo “Việt Nam thực thi Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của Công ước.”
Ảnh minh họa.
Nhân kỷ niệm 30 năm ngày mở ký Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, mới đây Việt Nam đã cho lưu hành tại Liên hợp quốc Báo cáo “Việt Nam thực thi Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của Công ước.”
Vĩnh Long Online giới thiệu toàn văn báo cáo này:
Việc 107 quốc gia cùng ký vào Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển tại Montego Bay (
Sự ra đời của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (Công ước Luật Biển 1982) đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một chuẩn mực pháp lý quốc tế công bằng mang tính toàn cầu đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
Quá trình xây dựng Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đã diễn ra nhiều năm với sự nỗ lực của trên 150 quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế, kể cả các tổ chức quốc tế phi chính phủ. Đến nay, thành viên của Công ước Luật Biển năm 1982 đã lên tới 164 quốc gia.
Công ước Luật Biển 1982 không chỉ quy định về quyền, nghĩa vụ của quốc gia ven biển mà còn đề cập đến quyền được tiếp cận với biển của các quốc gia không có biển, do vậy Công ước Luật Biển 1982 được nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia không có biển, cùng chấp nhận.
Công ước Luật Biển 1982 ra đời đã đặt nền tảng cho sự thiết lập một trật tự pháp lý mới liên quan đến các vấn đề biển và đại dương. Nội dung của Công ước 1982 đề cập toàn diện đến các lĩnh vực biển, có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát triển hay nước đang phát triển, dù là nước nhỏ hay nước lớn, dù là nước có biển hay không có biển.
Từ khi có hiệu lực ngày 16/11/1994, Công ước Luật Biển 1982 đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để điều phối các vấn đề liên quan đến biển, một công cụ pháp lý quan trọng để giải quyết, xử lý các tranh chấp biển và được coi là “Hiến pháp của đại dương.” Trong 30 năm tồn tại, Công ước Luật Biển 1982 đã được vận dụng khá hiệu quả để giải quyết nhiều tranh chấp biển phức tạp kéo dài, tránh được những nguy cơ xung đột tiềm tàng.
Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.260km, Việt
Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển cả, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình thương lượng xây dựng Công ước Luật Biển năm 1982 và có nhiều nỗ lực trong việc thực thi Công ước Luật Biển 1982; luôn đề cao tôn chỉ và mục tiêu của Công ước, đồng thời có những hành động thiết thực vào việc thực hiện Công ước.
1. Từ trước khi Công ước Luật Biển 1982 ra đời, Việt
Với Tuyên bố này, Việt Nam cũng như các nước Kenya, Myanmar, Cuba, Yemen, Dominica, Guatemala, Ấn Độ, Pakistan, Mexico, Seychelles được coi như những nước đi tiên phong trong việc đưa khái niệm vùng đặc quyền kinh tế trở thành khái niệm có giá trị tập quán và sau này trở thành một nội dung quan trọng của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
2. Việt Nam là quốc gia tham gia Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc về Luật Biển tại Montego Bay (
Trước khi Công ước có hiệu lực, ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt
Nghị quyết phê chuẩn khẳng định chủ quyền của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước Luật Biển 1982 và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế; yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam.
Nghị quyết khẳng định chủ trương của Việt Nam giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hoà bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển 1982, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được quy định bởi những nguyên tắc của Công ước Luật Biển 1982.
3. Vận dụng các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý cho công tác quản lý biển và các hoạt động kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Ngày 21/06/2012, Quốc hội Việt
Luật biển Việt Nam gồm 7 chương với 55 điều, đề cập đến các nguyên tắc quản lý và sử dụng biển; phạm vi và quy chế các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; quy chế các đảo, quần đảo; các hoạt động trong các vùng biển Việt Nam; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên biển; hợp tác quốc tế về biển.
Với việc thông qua Luật biển, Việt
Trước đó, ngày 14/6/2005, Quốc hội Việt
4. Căn cứ vào các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã và đang tiến hành quản lý có hiệu quả và triển khai các hoạt động kinh tế biển trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của mình phục vụ phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Chính phủ Việt
Việt Nam cũng đã chủ động và hợp tác cùng các bên liên quan trong việc bảo vệ môi trường biển, cứu hộ, cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và triển khai các biện pháp phòng chống tội phạm trên biển, nhất là cướp biển, góp phần thực hiện đầy đủ các quy định của Công ước Luật Biển 1982.
Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường biển là vấn đề luôn được Chính phủ Việt Nam hết sức coi trọng và đã được quy định trong các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý biển của Việt Nam trong các lĩnh vực khác nhau như: vận tải biển, dầu khí, nuôi trồng khai thác thủy hải sản và kiểm soát và tuần tra biển. Việt
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác tìm kiếm và cứu nạn mà Công ước Luật Biển 1982 đặt ra cho các quốc gia ven biển, Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn theo quyết định số 780/TTg ngày 23 tháng 10 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ. Ủy ban có nhiệm vụ chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc tìm kiếm-cứu nạn người và phương tiện (tàu bay, tàu thuyền, thiết bị dầu khí…) bị lâm nạn trên không, trên biển và vùng trách nhiệm tiếp giáp giữa Việt
5. Với chủ trương nhất quán thông qua các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, bất đồng trên biển, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả Công ước Luật Biển 1982 giải quyết các tranh chấp về phân định biển với các nước láng giềng, trong đó luôn đề cao nguyên tắc công bằng để tìm ra giải pháp hợp lý, cụ thể là: Việt Nam đã ký với Thái Lan Hiệp định về Phân định biển ngày 09/8/1997; ký với Trung Quốc Hiệp định về Phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác Nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000; ký với Indonesia Hiệp định về Phân định Thềm lục địa ngày 26/6/2003.
Việt Nam đang đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc, đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia và đang chuẩn bị đàm phán về vấn đề trên biển với các nước láng giềng khác.
Thực tiễn đàm phán, ký kết các văn kiện phân định biển của Việt Nam với các nước láng giềng đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo các quy định của Công ước Luật Biển 1982, đóng góp và làm phong phú thêm luật pháp quốc tế về phân định biển. Kết quả đàm phán giải quyết phân định giữa Việt Nam với Thái Lan và Trung Quốc góp phần khẳng định xu thế không thể phủ nhận của việc sử dụng đường trung tuyến hoặc cách đều làm xuất phát điểm để đi tới một giải pháp phân định công bằng và xu thế sử dụng đường phân định đơn nhất cho phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Mặt khác, Việt
Theo đó, khi bàn về các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam kiên trì yêu cầu “tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982,” coi đây như một nguyên tắc để giải quyết và xử lý các tranh chấp liên quan đến biển đảo. Việt Nam đã nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, kể cả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); Tuyên bố 6 điểm ngày 20/7/2012 của ASEAN về Biển Đông.
Với nỗ lực của Việt Nam, nội dung “căn cứ luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982 để tìm ra giải pháp cơ bản lâu dài cho các tranh chấp tại Biển Đông” đã được đưa vào vào Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc ký ngày 11/10/2011. Điều đó cho thấy Việt Nam không chỉ chủ động thực hiện nghiêm túc các quy định của Công ước Luật Biển 1982 mà còn luôn có ý thức thúc đẩy việc tôn trọng và thực hiện đầy đủ các nội dung của Công ước.
6. Căn cứ vào khuyến nghị trong Điều 74 và Điều 83 của Công Luật Biển 1982, Việt Nam luôn sẵn sàng cùng các bên hữu quan tiến hành hợp tác cùng phát triển ở những khu vực thực sự có tranh chấp, phù hợp với các quy định của Công ước Luật Biển 1982. Năm 1992, Việt
7. Thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, sau gần 3 năm nỗ lực (từ 2007 đến 2009), Việt Nam đã hoàn thành Báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa bảo đảm chất lượng, xác định một cách có cơ sở khoa học và pháp lý phạm vi thềm lục địa mở rộng của Việt Nam ở Biển Đông theo đúng tiêu chuẩn, quy định của Ủy ban Thềm lục địa Liên hợp quốc.
Đầu tháng 5/2009, Việt
8. Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế được thành lập theo Công ước Luật Biển 1982. Việt Nam là thành viên của Hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về Đáy Đại dương và đã từng được bầu làm Phó Chủ tịch Đại hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về Đáy Đại dương.
Việt Nam tham gia đầy đủ các hội nghị của các quốc gia thành viên Công ước Luật Biển 1982 được tổ chức hàng năm tại Đại hội đồng Liên hợp quốc và luôn có những đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy thực thi hiệu quả Công ước; tham gia và có những đóng góp tích cực vào các hội nghị Cơ quan Quyền lực Đáy Đại dương trong đó đề cao vai trò của Công ước Luật Biển 1982; ủng hộ tăng cường hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa và ủng hộ vai trò tư pháp của Tòa án Luật biển quốc tế; đồng thời đóng góp đầy đủ niên liễm để các cơ quan được thành lập theo Công ước hoạt động.
Tại các diễn đàn liên quan, Việt
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã tham gia xây dựng nhiều văn kiện pháp lý quốc tế và khu vực liên quan đến biển như Công ước quốc tế về Tổ chức Vệ tinh Hàng hải (INMARSAT), Hệ thống An toàn và Cứu nạn Hàng hải toàn cầu (GMDSS)..., đồng thời lập hệ thống đài thông tin duyên hải đáp ứng thông tin liên lạc giữa các tàu và giữa các tàu với bờ. Việc tiến hành kiểm tra tại cảng biển các tàu luôn tuân thủ các Thỏa thuận khu vực về kiểm tra nhà nước tại cảng biển.
Ngoài Công ước Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), Việt Nam đã tham gia rất nhiều các Công ước của IMO khác bao gồm: Công ước quốc tế về phòng ngừa ô nhiễm biển từ tàu 1973 và Nghị định thư bổ sung 1978 (MARPOL 73/78), Công ước về tấn trọng tải (Tonnage 69), Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc chung liên quan đến đâm va giữa các tàu chung (COLREG 72), Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng người trên biển (SOLAS 74), Công ước quốc tế về Mạn khô (Load Line 66),
Công ước quốc tế về tiêu chuẩn huấn luyện, cấp chứng chỉ chuyên môn và trực ca cho thuyền viên (STCW 78/95), Công ước quốc tế về ngăn ngừa các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải (SUA 88) và Nghị định thư về ngăn ngừa các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải đối với các dàn khoan cố định ở thềm lục địa; Công ước quốc tế về giới hạn trách nhiệm dân sự của chủ tàu đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu (CLC 1992 - Việt Nam tham gia ngày 1 tháng 7 năm 2003 và Công ước có hiệu lực với Việt Nam từ 1 tháng 7 năm 2004); Công ước về Tạo thuận lợi trong giao thông đường biển (FAL); Công ước về Tìm kiếm, cứu nạn (SAR 79).
Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định chung trong khuôn khổ hợp tác ASEAN liên quan đến vận tải biển và dịch vụ hàng hải như: Hiệp định về tạo thuận lợi cho tàu biển bị nạn và cứu người trên tàu bị nạn ngày 15/5/1975, Hiệp định khung ASEAN về Tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải hàng hoá quá cảnh ngày 16/12/1998, Hiệp định khung về thương mại dịch vụ (GATS) tháng 12/1995, Hiệp định khung ASEAN về Tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải liên quốc gia ngày 26/3/2012.
Việc Việt Nam tham gia các văn kiện pháp lý liên quan đến biển của khu vực và quốc tế thể hiện rõ quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc thực thi đầy đủ những nội dung của Công ước Luật Biển 1982.
Tóm lại, 30 năm nay, Công ước Luật Biển 1982 đã thực sự trở thành căn cứ pháp lý quốc tế vững chắc để xác định quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của quốc gia ven biển, đồng thời cũng là cơ sở để xử lý các vấn đề liên quan đến biển và đại dương, kể cả những tranh chấp về biển.
Là một quốc gia gắn liền với biển, Việt
Nhà nước Việt
Theo TTXVN
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin