Ông Đỗ Văn Tuấn (ngụ xã Phú Hựu, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp) gửi đơn đến Báo Vĩnh Long trình bày nội dung vụ việc như sau:
Ông Đỗ Văn Tuấn (ngụ xã Phú Hựu, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp) gửi đơn đến Báo Vĩnh Long trình bày nội dung vụ việc như sau: Ông là người được thi hành án theo Bản án dân sự phúc thẩm số 199/2018/DS-PT về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” của TAND tỉnh Vĩnh Long. Theo quyết định tại bản án này, ông N.T.T. có nghĩa vụ phải trả lại cho ông 286,5 triệu đồng. Do ông T. không tự nguyện trả số tiền này nên ông đã gửi đơn yêu cầu thi hành án đến Chi cục Thi hành án dân sự TP Vĩnh Long. Tuy nhiên, đến nay vụ việc vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông.
Liên quan đến vụ việc trên, được biết vào năm 2018 sau khi nhận đơn yêu cầu thi hành án của ông Đỗ Văn Tuấn, Chi cục Thi hành án dân sự TP Vĩnh Long đã tổ chức thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số 199/2018/DS-PT. Quá trình tổ chức thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự TP Vĩnh Long đã lần lượt ra Quyết định thi hành án số 416/QĐ-CCTHADS, Quyết định số 24/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản của ông N.T.T. gồm quyền sử dụng đất (QSDĐ), nhà ở và tài sản khác gắn liền với phần đất có diện tích 73,7m2, thuộc thửa 286, tờ bản đồ số 17, tọa lạc tại Phường 4 (TP Vĩnh Long) để thi hành án. Đến ngày 6/6/2019, Chi cục Thi hành án dân sự TP Vĩnh Long ra Quyết định số 05/QĐ-CCTHADS về việc tạm hoãn thi hành án đối với ông N.T.T. về khoản buộc ông T. có nghĩa vụ trả cho ông Tuấn số tiền 286,5 triệu đồng và lãi chậm thi hành án theo quy định.
Phần đất của ông T. bị kê biên thi hành án theo Bản án dân sự phúc thẩm số 199/2018/DS-PT được bà Đ. (mẹ ông T.) thỏa thuận hợp đồng tặng cho QSDĐ vào năm 2007. Tuy nhiên, hợp đồng tặng cho QSDĐ này phát sinh tranh chấp trong một vụ án dân sự khác do ông D. (chồng bà Đ.) khởi kiện và ông Tuấn cũng là đương sự của vụ án này với vai trò người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, Bản án dân sự sơ thẩm số 122/2020/DS-PT của TAND TP Vĩnh Long không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Tuấn về việc công nhận hợp đồng tặng cho QSDĐ giữa bà Đ. và ông T. nên ông đã kháng cáo. Sau đó, Bản án dân sự phúc thẩm số 40/2021/DS-PT của TAND tỉnh Vĩnh Long chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Tuấn và vô hiệu một phần hợp đồng tặng cho QSDĐ giữa bà Đ. và ông T. đối với phần diện tích 36,85m2 thuộc quyền sử dụng của ông D.. Cũng theo quyết định tại bản án này, ông D. được tiếp tục quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích 73,7m2 thuộc thửa 286 nhưng có nghĩa vụ hoàn lại cho ông T. 1/2 giá trị thửa đất (tương đương hơn 40,3 triệu đồng).
Trả lời nội dung liên quan đến vụ việc, ông Nguyễn Phước Điện- Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự TP Vĩnh Long, cho biết hiện ông T. không có tài sản để thi hành án nên Chi cục Thi hành án dân sự TP Vĩnh Long đã ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án, căn cứ theo quy định tại khoản 1, Điều 44a Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014. Cũng theo quy định tại luật này ở khoản 2, Điều 44, trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì chấp hành viên sẽ tiếp tục xác minh điều kiện thi hành án ít nhất 6 tháng 1 lần. Sau 2 lần xác minh mà vẫn chưa có đủ điều kiện để thi hành án thì việc xác minh lại được tiến hành khi chấp hành viên có thông tin mới về điều kiện thi hành án. Theo quy định trên, khi có căn cứ xác định ông T. có điều kiện thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự TP Vĩnh Long sẽ tiếp tục tổ chức thi hành án vụ việc của ông Tuấn.
TP. PHÒNG BẠN ĐỌC