Hiện tại căn nhà và một số tài sản khác đều do chồng tôi đứng tên. Vì vậy mọi người đều bảo sau này nếu có ly dị thì tôi sẽ không có gì trong số tài sản đó. Xin hỏi, như vậy có đúng không?
Hiện tại căn nhà và một số tài sản khác đều do chồng tôi đứng tên. Vì vậy mọi người đều bảo sau này nếu có ly dị thì tôi sẽ không có gì trong số tài sản đó. Xin hỏi, như vậy có đúng không?
Lâm Thị Tú Anh
(Vũng Liêm)
Trả lời:
Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung.
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả 2 vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của luật này.
Điều 26 của luật này quy định việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 của luật này.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.
Khoản 3 Điều 33 luật này quy định, trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
PHÒNG BẠN ĐỌC
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin