Mùa mưa lũ năm 2025, nhiều đô thị (ĐT) ĐBSCL, trong đó có các ĐT của tỉnh Vĩnh Long ghi nhận mức ngập sâu. Nhằm lý giải nguyên nhân tình hình ngập ở các ĐT ĐBSCL năm nay và dự báo, đề xuất những giải pháp thích ứng hiệu quả cho tương lai, phóng viên Báo và phát thanh, truyền hình Vĩnh Long đã có cuộc trò chuyện với ThS Nguyễn Hữu Thiện- chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
* Nhiều năm nghiên cứu về điều kiện tự nhiên vùng ĐBSCL, ông có lý giải gì về nguyên nhân gây ngập ở các ĐT vùng này?
![]() |
| ThS Nguyễn Hữu Thiện- chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL. |
- ThS Nguyễn Hữu Thiện: Trước hết chúng ta cần nói về quy luật của nước. Các ĐT như Vĩnh Long, Cần Thơ, Mỹ Tho, Ngã Bảy nằm ở vùng giữa của đồng bằng chịu tác động từ 2 phía, nước từ thượng nguồn Mekong đổ xuống qua sông Tiền, sông Hậu và nước thủy triều từ Biển Đông lên.
Từ thượng nguồn xuống, hàng năm sông Mekong trung bình đổ về 475 tỷ mét khối, trong đó 80% chảy trong mùa lũ từ tháng 7 dương lịch, đạt đỉnh khoảng giữa tới cuối tháng 10 rồi bắt đầu hạ dần đến hết tháng 12 chuyển sang mùa khô.
Mực nước mùa lũ về ĐBSCL cao hay thấp là tùy vào lượng nước mưa từ phía thượng nguồn đổ về. Lượng nước mưa phía thượng nguồn biến động hàng năm theo chu kỳ ENSO khoảng 3-7 năm, trong đó có pha nóng El Nino ít mưa, pha lạnh La Nina mưa nhiều và ENSO trung tính mưa bình thường.
Thủy triều từ Biển Đông theo nhịp ngày, tháng và năm. Biển Đông có chế độ bán nhật triều nên mỗi ngày nước biển dâng cao lên đến 3,5-4m, 2 lần trong ngày, đẩy nước sông chảy ngược vào nội địa gọi là nước lớn, sau đó vài tiếng nước biển hạ xuống, nước sông đổi chiều chảy ra biển, gọi là nước ròng.
Trong 1 tháng lại có 2 con nước rong vào dịp rằm và 30 âl, mỗi đợt 3-5 ngày. Giữa các kỳ nước rong là 2 kỳ nước kém (ngày 23 và mùng 8 âl). Trong 1 năm thì thủy triều từ tháng 8 âl tới tháng 2 năm sau là cao nhất.
Các ĐT vùng giữa đồng bằng thường bị ngập 4 lần mỗi năm vào dịp rằm, ngày 30 tháng 8, 9 âl, mỗi đợt 3-5 ngày, mỗi ngày 2 lần vào giờ nước lớn của ngày nước rong, và mỗi lần khoảng 3-4 tiếng. Nước lớn hôm sau trễ hơn hôm trước khoảng 50 phút.
Theo quy luật này chúng ta có thể đoán trước khi nào ĐT Vĩnh Long bị ngập, ngập mấy ngày, ngày mấy lần, mỗi lần bao lâu.
Tình hình chung là nước biển đã và vẫn đang dâng, dù với tốc độ chậm chỉ khoảng 3,6 mm/năm nhưng tích lũy nhiều năm thành đáng kể. Kế tiếp là đồng bằng đang sụt lún với tốc độ trung bình gấp 3-4 lần nước biển dâng.
Nguyên nhân của sụt lún là do khai thác nước ngầm quá mức, là do sông ngòi quá ô nhiễm không còn sử dụng được như cách đây 30 năm. Sông ngòi ô nhiễm quá mức là do chất thải từ nhiều nguồn, nhưng trong đó quan trọng nhất là sông ngòi bị tù đọng, mất ảnh hưởng của thủy triều do có quá nhiều công trình đê đập cản trở dòng chảy.
Trong bối cảnh sụt lún chung của đồng bằng thì các ĐT sụt lún nhanh hơn vì sức nặng của các công trình xây dựng.
Bên cạnh đó, còn một nguyên nhân rất quan trọng là thiếu không gian cho nước lan tỏa. Đầu tiên chúng ta cần biết rằng không gian cho nước của một dòng sông không chỉ là dòng sông mà còn là không gian của cánh đồng 2 bên. Thế nhưng tình hình ở ĐBSCL thì đã khác.
* Về nguyên nhân thiếu không gian cho nước lan tỏa, chúng ta có thể hiểu vấn đề này như thế nào?
- Từ phía thượng nguồn xuống, sông Mekong vào lãnh thổ Việt Nam qua sông Tiền và sông Hậu. Ở tả ngạn sông Tiền có Đồng Tháp Mười là một vùng trũng tự nhiên, mỗi năm trong mùa nước nổi ngập từ 1-4m, hấp thu được 10 tỷ mét khối nước lũ. Tương tự, ở hữu ngạn sông Hậu có Tứ giác Long Xuyên hấp thu 9,2 tỷ mét khối.
Nhưng ngày nay, vì đê bao khép kín để canh tác lúa 3 vụ quanh năm, Tứ giác Long Xuyên đã mất không gian cho 4,5 tỷ mét khối, còn Đồng Tháp Mười đã mất không gian 3,5 tỷ mét khối. Khối nước khổng lồ không vào đồng ruộng được nên ở trong dòng chính, dồn về gây tăng ngập ở hạ lưu.
Từ phía biển lên, tất cả các cửa sông còn lại của sông Cửu Long (còn 7 cửa) đều có đê sông 2 bên và có cống chặn các sông nhánh. Như vậy thủy triều từ biển vào cũng bị kẹp giữa 2 đê sông và vì vậy chảy mạnh thẳng vào vùng giữa đồng bằng.
Tại vùng giữa đồng bằng có dải ĐT theo trục QL1, 2 nguồn nước từ trên xuống và từ biển lên gặp nhau gây ngập. Vùng giữa này cũng là vùng cây ăn trái đều có đê bao khép kín, nước không lan tỏa đi đâu được nên gây ngập dữ dội ở ĐT và lộ giao thông.
Ở Cần Thơ, khi Ninh Kiều được bao lại chống ngập thì Bình Thủy gánh chịu. Sau này khi Bình Thủy cũng được bao kín thì nơi khác sẽ tăng ngập.
![]() |
| Một đoạn đường Phạm Hùng thuộc phường Long Châu (tỉnh Vĩnh Long) bị ngập vào mùa mưa lũ năm 2025. |
* Mùa mưa lũ năm nay, các ĐT vùng giữa đồng bằng bị ngập nghiêm trọng. Dự báo thực trạng này trong những năm tới ra sao?
- Năm nay thuộc năm có thời tiết La Nina bắt đầu từ tháng 9 kéo dài đến hết tháng 12 nên lượng mưa khá nhiều trên lưu vực làm mực nước lũ về ĐBSCL khá cao.
Tuy năm nay lũ về không cao hơn 2000 và 2011 nhưng Vĩnh Long ngập cao hơn trước, vậy thì yếu tố tăng ngập trầm trọng không phải một mình nước lũ từ thượng nguồn đổ về gây ra. Thủy triều từ phía biển năm nay có thể cao hơn bình thường.
Chúng ta cũng cần xét rằng địa hình đồng bằng có độ nghiêng thấp dần từ biên giới ra biển. Ở Châu Đốc, cao trình khoảng 2-4m trên mực nước biển, ở vùng giữa như Cần Thơ, Vĩnh Long có cao trình khoảng 1,2-1,4m, còn ở về gần biển thì cao trình chỉ 0,3m trên mực nước biển.
Nếu do thủy triều cao gây ngập thì phải ngập nặng vùng ven biển trước rồi mới ngập tới Cần Thơ, Vĩnh Long, nhưng thực tế các vùng ven biển không có ngập mà trong lúc các ĐT vùng giữa ngập sâu thì có những cánh đồng mênh mông ven biển đang xuống giống.
Vì vậy nước thủy triều bị đẩy thẳng vào vùng giữa, đụng với nước lũ từ trên xuống gây ngập nặng ĐT vùng này.
Với tất cả các yếu tố trên, chúng ta không tìm được lý do gì để tình hình ngập sẽ dừng lại hay giảm trong tương lai.
* Cần có những giải pháp gì để chủ động ứng phó, thích nghi, thưa ông?
- Giải pháp để giảm ngập cho các ĐT vùng giữa đồng bằng thì có giải pháp ngắn hạn, cục bộ và dài hạn trên bình diện đồng bằng.
Đối với các ĐT lớn và quan trọng như Cần Thơ, Vĩnh Long, ngập gây thiệt hại rất lớn về kinh tế, xã hội, hư hỏng nhà cửa đường sá, đảo lộn sinh hoạt người dân, ảnh hưởng sức khỏe. Do đó, không thể “sống chung với ngập” được. Không nên lầm lẫn khái niệm “sống chung với lũ” của đồng bằng với “sống chung với ngập ĐT”.
Do đó trong ngắn hạn có thể nghĩ tới việc bao đê bảo vệ ĐT như cách Cần Thơ làm. Giải pháp này rất đắt đỏ, nhưng cũng chỉ là giải pháp tình thế, tạm thời vì bao nơi này thì nơi khác sẽ tăng ngập và cuộc đua không có hồi kết. Công trình vận hành rất đắt đỏ và chi phí duy tu bảo dưỡng về sau sẽ ngày càng tăng cao cùng với tuổi của công trình.
Giải pháp dài hạn, căn cơ là phải đặt vào bối cảnh đồng bằng. Cần phải khôi phục lại không gian cho nước lũ và thủy triều lan tỏa.
Cụ thể là giảm đê bao khép kín canh tác lúa 3 vụ ở đầu nguồn và đưa các khu ngọt hóa ven biển trở lại điều kiện ngọt lợ luân phiên theo mùa để thủy triều có thể lan tỏa. Ngoài ra, khi sông ngòi không còn nhiều công trình cản trở thì sẽ phục hồi trở lại để có thể giảm sử dụng nước ngầm, giảm sụt lún cho đồng bằng.
Tất cả các điều này có thể đạt được nếu thực hiện đúng Quy hoạch tích hợp ĐBSCL theo Quyết định số 287 của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
* Xin cảm ơn ông!
TUYẾT HIỀN (thực hiện)




Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin