Một số đổi mới quan trọng của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

07:12, 31/12/2014

Ngày 19/6/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình (HN-GĐ), có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015, thay thế Luật HN-GĐ năm 2000. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, phóng viên Báo Vĩnh Long đã có cuộc trao đổi với ông Đỗ Đình Gần- Trưởng Phòng Phổ biến giáo dục pháp luật thuộc Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Long.

Ngày 19/6/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình (HN-GĐ), có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015, thay thế Luật HN-GĐ năm 2000.

Để hiểu rõ hơn vấn đề này, phóng viên Báo Vĩnh Long đã có cuộc trao đổi với ông Đỗ Đình Gần- Trưởng Phòng Phổ biến giáo dục pháp luật thuộc Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Long.


* Luật HN-GĐ năm 2014 có những quy định mới và sửa đổi, bổ sung một số điều. Xin ông cho biết cụ thể những điểm mới cơ bản và việc đổi mới này có ý nghĩa như thế nào?

- Luật HN-GĐ năm 2014 có rất nhiều điểm mới so với Luật HN-GĐ năm 2000. Tuy nhiên có những điểm mới cơ bản nổi bật sau:

Thứ nhất, về điều kiện kết hôn, ở Điều 8 quy định: Ngoài việc kết hôn giữa nam nữ phải tự nguyện; không bị mất năng lực hành vi dân sự; không vi phạm các điều cấm của luật; về độ tuổi kết hôn, Luật kế thừa Luật HN-GĐ năm 2000 nhưng với nguyên tắc làm tròn cụ thể: nam phải từ đủ 20 và nữ từ đủ 18 tuổi; đồng thời luật bỏ quy định cấm kết hôn đồng giới nhưng Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới.

Việc thay đổi độ tuổi kết hôn của nam, nữ nhằm thống nhất với Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, vì theo Bộ luật Dân sự 2005 người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì quy định đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự.

Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là không hợp lý, thiếu đồng bộ và làm hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập các giao dịch trong trường hợp kết hôn chưa đủ 18 tuổi.

Bỏ quy định cấm kết hôn đồng giới nhằm đảm bảo quyền tự do của công dân đồng thời phù hợp với xu hướng quốc tế ngày càng có nhiều quốc gia công nhận hay thừa nhận hôn nhân đồng giới. Tuy nhiên, nhằm giữ gìn những giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc, Nhà nước ta vẫn “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”.

Thứ hai, luật bổ sung quy định vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận; giúp công dân có thể thỏa thuận với nhau về tài sản trước khi kết hôn, không phải cứng nhắc chỉ áp dụng chế độ tài sản theo luật như trước đây.

Thứ ba, bổ sung quy định thừa nhận chế độ “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” với quy định trên có ý nghĩa rất quan trọng và đáp ứng yêu cầu chính đáng của các cặp vợ chồng kém may mắn, không thể sinh con, ngay cả khi đã áp dụng những biện pháp hỗ trợ sinh sản, theo tôi đây là quy định mang tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc.

Tuy nhiên, nhằm tránh việc lợi dụng quy định này để sinh con thứ ba, hay thương mại hóa trong việc mang thai hộ, Luật HN-GĐ năm 2014 quy định rất chặt chẽ về điều kiện của người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo tại Điều 95, cụ thể:

Phải tự nguyện và lập thành văn bản có công chứng; là bà con thân thích cùng họ hàng với vợ hoặc chồng; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ 1 lần; ở độ tuổi phù hợp có xác nhận của tổ chức y tế; được sự đồng ý của người chồng (nếu có chồng); được tư vấn về y tế, pháp lý và tâm lý.

Thứ tư, quy định rõ giải quyết hậu quả của việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, tại các Điều 14, 15 và 16, cụ thể: Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì giữa họ không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng; quyền, nghĩa vụ đối với con được giải quyết theo quy định chung của Luật HN-GĐ;
 
quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên, trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con, công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

Thứ năm, bổ sung quy định về chủ thể yêu cầu ly hôn và quy định cụ thể hơn căn cứ giải quyết cho ly hôn của Tòa án (từ Điều 51- 64).

Theo đó, luật đã bổ sung quy định, cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác không có khả năng nhận thức được hành vi. Trường hợp này thì tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

Quy định cụ thể hơn căn cứ để tòa án giải quyết ly hôn khi vợ, chồng có yêu cầu theo hướng nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

* Về nguyên tắc chung là như vậy, đối với nội bộ gia đình, luật quy định chế độ tài sản vợ chồng và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên như thế nào, thưa ông?

- Luật HN-GĐ năm 2014 quy định vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận.

Chế độ tài sản theo luật định được quy định từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64 bao gồm các quy định về: Như thế nào là tài sản chung; việc đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung; quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;...

Chế độ tài sản theo sự thỏa thuận được luật quy định tại các Điều 47, 48, 49, 50 và 59 bao gồm các quy định về: thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng; nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng; quy định về sửa đổi bổ sung nội dung thỏa thuận và quy định về các trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản bị tòa án tuyên bố vô hiệu.

Ngoài ra, luật còn bổ sung quy định, cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng nhau trường hợp người cần được nuôi dưỡng không còn cha, mẹ, con; anh, chị, em ruột; ông bà, cháu nội, ngoại hoặc còn nhưng những người này không có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, ngay cả khi không sống chung.

* Xin cảm ơn ông!

TẤN PHONG (thực hiện)

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh