Chế định Thừa phát lại đã có từ rất lâu và hiện được áp dụng rất nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay có khoảng trên dưới 66 quốc gia đã áp dụng mô hình này và là thành viên Liên minh Thừa phát lại quốc tế.
I. Vài nét về Thừa phát lại tại Việt
Chế định Thừa phát lại đã có từ rất lâu và hiện được áp dụng rất nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay có khoảng trên dưới 66 quốc gia đã áp dụng mô hình này và là thành viên Liên minh Thừa phát lại quốc tế.
Ở Việt
Trong thời kỳ Pháp thuộc, chế định Thừa phát lại được quy định trong các văn bản pháp luật như: Bộ luật Tố tụng Nam Việt ban hành năm 1910; Bộ Dân luật Trung năm 1936-1939; Bộ Hộ sự, Thương sự Tố tụng Trung năm 1942; Bộ Dân luật Bắc năm 1931; Bộ Dân sự Tố tụng Bắc năm 1917; Nghị định số 111 ngày 8/3/1949 của chính quyền Bảo Đại.
Trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thừa phát lại tiếp tục được duy trì cho đến năm 1950. Tại sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định: Trong các xã, thị xã hoặc khu phố, chủ tịch, phó chủ tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các tòa án; ở những nơi nào đã có thừa phát lại riêng, thì đương sự có quyền nhờ thừa phát lại riêng thi hành mệnh lệnh.
Sắc lệnh cũng quy định: “Các bản toàn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh do các phòng lục sự phát cho các người đương sự để thi hành các án, hoặc mệnh lệnh của các tòa án hộ đều phải có thể thức thi hành, ấn định như sau: “Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa truyền cho các Thừa phát lại theo yêu cầu của đương sự thi hành bản án này, các ông chưởng lý và biện lý kiểm sát việc thi hành án, cai thị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật yêu cầu”...
Ở miền
- Thông báo tòa khai mạc và bế mạc, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự tại tòa. Đây là các nhiệm vụ tại phiên tòa.
- Tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của tòa án, lập các vi bằng theo quy định của pháp luật, phát mại động sản hay bất động sản và trực tiếp thi hành các bản án, quyết định của tòa án. Các nhiệm vụ này được thực hiện bên ngoài phiên tòa.
Về tổ chức, Thừa phát lại là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được hưởng thù lao của khách hàng theo biểu giá quy định. Khác với luật sư, Thừa phát lại không có quyền từ chối thi hành nhiệm vụ nếu được yêu cầu nếu không có lý do chính đáng. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, Thừa phát lại chịu sự chỉ đạo trực tiếp của những công chức có trách nhiệm như: chưởng lý, biện lý, thẩm phán, lục sự. Hoạt động của Thừa phát lại được tổ chức thành văn phòng.
II. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về Thừa phát lại
1.Chủ Trương của Đảng và Nhà nước ta về Thừa phát lại
Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, xã hội hóa một số nội dung công tác tư pháp trong đó có hoạt động thi hành án, Đảng ta đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng, như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong giai đoạn tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Đặc biệt, Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình... từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”; “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại, trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.
Thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương ban hành Kế hoạch số 05- KH/CCTP ngày 22/2/2006, trong đó có nêu rõ: “Nghiên cứu mô hình tổ chức Thừa phát lại, trước mắt tổ chức thí điểm tại TP Hồ Chí Minh... Ban Cán sự Đảng bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp cùng Ban Cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thành ủy TP Hồ Chí Minh”.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, ngày 14/11/2008 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự trong đó có quy định:
“Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày luật này có hiệu lực thi hành đến ngày 1/7/2012. Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định”.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội, Bộ Tư pháp đã phối hợp Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, UBND TP Hồ Chí Minh xây dựng Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại TP Hồ Chí Minh” trình Thủ tướng phê duyệt.
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 224/QĐ-TTg ngày 19/2/2009 phê duyệt Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại TP Hồ Chí Minh”. Ngày 24/7/2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP Hồ Chí Minh, thời gian thực hiện thí điểm là 3 năm.
Thực hiện Nghị định số 61/2009/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 03/2009/TT- BTP ngày 30/9/2009 hướng dẫn thực hiện một số công việc của Thừa phát lại.
Đồng thời, Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch số 12/2010/TTLT-BTP-BTC-TANDTC ngày 24/6/2010 về hướng dẫn một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP liên quan đến chi phí thực hiện công việc của Thừa phát lại và chế độ tài chính đối với văn phòng Thừa phát lại.
Bộ Tư pháp phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch số 13/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 7/7/2010 về hướng dẫn thủ tục thực hiện một số công việc của Thừa phát lại; Nghị định 135/2013/NĐ- CP, ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định 61.
(Còn tiếp)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin