
Hiện nay, cả nước còn hơn 1000 người hy sinh, 20.000 người bị thương trong chiến tranh nhưng không còn lưu giữ đầy đủ giấy tờ gốc và chưa được giải quyết chính sách. Để xử lý vấn đề này, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Quốc phòng đã ra thông tư liên tịch, hướng dẫn cách giải quyết.
Hiện nay, cả nước còn hơn 1000 người hy sinh, 20.000 người bị thương trong chiến tranh nhưng không còn lưu giữ đầy đủ giấy tờ gốc và chưa được giải quyết chính sách. Để xử lý vấn đề này, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Quốc phòng đã ra thông tư liên tịch, hướng dẫn cách giải quyết.
|
Thượng tướng Nguyễn Thành Cung, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng thăm các bệnh binh nặng tại Trung tâm điều dưỡng thương binh nặng Nho Quan (Ninh Bình)
|
Hai căn cứ xác nhận liệt sĩ, 5 căn cứ chứng minh bị thương
Tại cuộc họp ngày 5-8-2013, dưới sự chủ trì của Đại tướng Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và đồng chí Phạm Thị Hải Chuyền, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH) các đại biểu đều khẳng định: Giải quyết chế độ cho các đối tượng không còn lưu giữ đầy đủ giấy tờ gốc là việc cần được triển khai nhanh chóng, chặt chẽ. Thiếu tướng Trần Văn Minh, Cục trưởng Cục Chính sách (Tổng cục Chính trị) cho biết:
- Cái khó của việc giải quyết chế độ cho đối tượng này là họ không còn lưu giữ đầy đủ giấy tờ gốc, vì vậy cơ quan chức năng phải khảo sát rất kỹ các đối tượng để xác định chính xác người thực sự là liệt sĩ, là thương binh, mà chưa được hưởng chế độ.
Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch (Bộ Quốc phòng-Bộ LĐ-TB-XH) thì có hai căn cứ để xác nhận liệt sĩ gồm:
- Danh sách liệt sĩ lưu tại cơ quan, đơn vị có ghi tên người hy sinh, hoặc giấy tờ, tài liệu có giá trị pháp lý lập từ ngày 31-12-1994 trở về trước, có ghi nhận là liệt sĩ hoặc hy sinh trong chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu.
- Người hy sinh đã được chính quyền và nhân dân suy tôn đưa vào an táng trong nghĩa trang liệt sĩ nơi hy sinh, được gắn bia mộ liệt sĩ từ 31-12-1994 trở về trước.
Đối với trường hợp xác định thương binh, thông tư xác định 5 căn cứ chứng minh bị thương trong chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu. Cụ thể:
- Giấy tờ có ghi sức ép hoặc chấn thương; danh sách quân nhân bị thương (hoặc người bị thương) của cơ quan, đơn vị quản lý đối tượng khi bị thương có ghi tên cá nhân bị thương.
- Giấy tờ, tài liệu của cơ quan, đơn vị lập từ ngày 31-12-1994 trở về trước có ghi nhận cá nhân bị thương khi tham gia chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu. Trường hợp giấy tờ, tài liệu không ghi các vết thương cụ thể thì căn cứ vào kết quả kiểm tra vết thương thực thể của cơ quan, đơn vị có thẩm quyền.
- Người bị thương thuộc lực lượng quân đội, công an có vết thương thực thể, nhưng không còn danh sách quân nhân bị thương do cơ quan, đơn vị quản lý quân nhân khi bị thương đã giải thể hoặc không lưu giữ được.
Trường hợp không có vết thương thực thể, nhưng còn dị vật kim khí trong cơ thể thì phải có kết quả chiếu, chụp và kết luận của bệnh viện cấp huyện trở lên, hoặc bệnh viện quân đội, công an, khẳng định còn dị vật kim khí trong cơ thể.
- Người không thuộc lực lượng quân đội, công an bị thương trong kháng chiến chống Pháp ở miền Nam và các chiến trường B, C, K và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hiện còn vết thương thực thể. Trường hợp còn dị vật kim khí trong cơ thể thì phải có kết quả chiếu, chụp và kết luận của bệnh viện cấp huyện trở lên hoặc bệnh viện quân đội, công an khẳng định còn dị vật trong cơ thể.
- Người không thuộc lực lượng quân đội, công an bị thương trong kháng chiến chống Pháp ở miền Bắc và trong các thời kỳ chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, hiện có kết quả chiếu, chụp và kết luận của bệnh viện cấp huyện trở lên, hoặc bệnh viện quân đội, công an khẳng định còn dị vật kim khí trong cơ thể.
Đại tá Trần Văn Diệm, cán bộ Phòng Thương binh-Liệt sĩ (Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị) cho biết:
“Đồng thời với căn cứ chứng minh bị thương trong chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu, thì người bị thương phải có căn cứ chứng minh quá trình tham gia cách mạng như: Người thoát ly tham gia cách mạng, hoặc hoạt động không thoát ly, nhưng sau đó thoát ly tham gia công tác tại các cơ quan nhà nước phải có một trong các giấy tờ sau: Lý lịch cán bộ; lý lịch đảng viên; lý lịch quân nhân; lý lịch công an nhân dân; quyết định phục viên, xuất ngũ, thôi việc; hồ sơ bảo hiểm xã hội hoặc các giấy tờ, tài liệu có giá trị pháp lý lập từ ngày 31-12-1994 trở về trước.
Trường hợp không còn một trong các giấy tờ nêu trên, nhưng đã được hưởng trợ cấp theo các Quyết định 47, 290, 142, 62, 53, 40 của Thủ tướng Chính phủ, thì đối với người hoạt động không thoát ly và sau đó không tiếp tục tham gia công tác tại các cơ quan nhà nước, thì phải có bản khai chi tiết quá trình tham gia cách mạng, có xác nhận UBND cấp xã nơi cư trú”.
Thực hiện công khai, minh bạch, chặt chẽ
Đồng chí Bùi Hồng Lĩnh, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH khẳng định:
- Đối tượng được xem xét giải quyết chế độ chính sách đợt này đa dạng, liên quan đến nhiều bộ, ngành, địa phương, đòi hỏi các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương phải phối hợp chặt chẽ, đề cao trách nhiệm, tổ chức xét duyệt công khai, minh bạch trong quá trình xét duyệt, thẩm định, giám định, gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát ở cơ sở, kiên quyết thu hồi hồ sơ giả mạo, xử lý các trường hợp cố tình làm trái.
Quy trình hướng dẫn xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh trong chiến tranh không còn giấy tờ được tổ chức làm từ cấp xã, phường, thị trấn. Sau khi thân nhân liệt sĩ, người bị thương lập bản khai cá nhân (có mẫu) kèm theo giấy tờ chứng minh theo quy định sẽ được Hội Cựu chiến binh và Hội Người cao tuổi cùng cấp có ý kiến bằng văn bản xác nhận.
Sau đó niêm yết công khai danh sách tại cấp thôn, xóm và UBND xã; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương (nếu có) để lấy ý kiến của nhân dân (thời gian niêm yết, thông báo tối thiểu 15 ngày) và lập biên bản kết quả niêm yết công khai; sau đó chuyển hồ sơ lên các cấp tiếp theo để thẩm định, hoàn thiện hồ sơ xét duyệt.
Đối với người bị thương thuộc lực lượng quân đội hiện đang tại ngũ thì thủ tục xác nhận bao gồm: Người bị thương lập bản khai cá nhân. Cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý người bị thương xác nhận bản khai cá nhân và niêm yết công khai danh sách.
Sau đó bộ CHQS cấp tỉnh, Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội, hoặc sư đoàn và tương đương có trách nhiệm kiểm tra, hoàn thiện hồ sơ, lập biên bản kiểm tra vết thương thực thể; cấp giấy chứng nhận bị thương đối với trường hợp hồ sơ đủ điều kiện; có công văn kèm theo danh sách, hồ sơ gửi về cơ quan chính trị đơn vị trực thuộc Bộ để đề nghị Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị thẩm định.
Cơ quan chính trị đơn vị trực thuộc Bộ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, căn cứ kết quả thẩm định để giới thiệu người bị thương đến Hội đồng Giám định y khoa giám định thương tật; báo cáo bộ tư lệnh quân khu ra quyết định thực hiện chế độ ưu đãi.
Đối tượng không áp dụng là người bị chết đã có văn bản của cơ quan có thẩm quyền kết luận không đủ điều kiện xác nhận liệt sĩ, hoặc đã được giải quyết chế độ tử sĩ, quân nhân từ trần, tai nạn lao động, tai nạn chiến tranh. Người bị thương đã có kết luận không đủ điều kiện xác nhận thương binh, người hưởng chính sách như thương binh đã được giải quyết chế độ tai nạn lao động, tai nạn chiến tranh và người bị thương đã được giám định kết luận tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật dưới 21%.
|
Theo QĐND Online
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin