Vựa lúa Việt Nam trước thách thức của biến đổi khí hậu

06:12, 31/12/2013

Việt Nam là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho nhân loại. Tuy nhiên, do tác động của biến đổi khí hậu, dự báo chỉ tính riêng vựa lúa lớn nhất Việt Nam là ĐBSCL có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn/năm, tương đương với 40,52% tổng sản lượng lúa của cả vùng…


Ứng phó với biến đổi khí hậu theo hướng thích ứng là khả thi hơn cả. Ảnh: VINH HIỂN

Việt Nam là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho nhân loại. Tuy nhiên, do tác động của biến đổi khí hậu, dự báo chỉ tính riêng vựa lúa lớn nhất Việt Nam là ĐBSCL có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn/năm, tương đương với 40,52% tổng sản lượng lúa của cả vùng…

Vựa lúa Việt sẽ mất 7,6 triệu tấn lúa mỗi năm

Các dự báo cho thấy đến năm 2100, chỉ tính riêng vựa lúa lớn nhất Việt Nam và của thế giới là ĐBSCL có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn/năm, tương đương với 40,52% tổng sản lượng lúa của cả vùng, do tác động của biến đổi khí hậu.

Đây là những thông tin được đưa ra tại hội thảo “Nông nghiệp Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu: Cơ hội và thách thức” do Bộ Nông nghiệp- PTNT tổ chức gần đây tại Hà Nội.

Các đánh giá bước đầu về tác động của biến đổi khí hậu đối với ngành trồng trọt nước ta cho thấy: Tổng sản lượng sản xuất trồng trọt có thể giảm từ 1-5%, năng suất các cây trồng chính có thể giảm đến 10%, đặc biệt đối với sản xuất lúa. Nước biển dâng cao làm xâm nhập mặn sâu hơn vào nội địa, có thể làm cho khoảng 2,4 triệu hecta đất bị nước biển xâm nhập.

Theo đó, nếu mực nước biển dâng cao 1m thì nhiều diện tích chuyên trồng lúa 2 vụ/năm sẽ không thể sản xuất được do nước mặn tràn vào.

Ông Phạm Đồng Quảng- Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp-PTNT) cho biết, biến đổi khí hậu đã và đang tác động mạnh mẽ đến ngành trồng trọt, rõ ràng nhất là làm giảm diện tích đất canh tác, gây ra tình trạng hạn hán và sâu bệnh, gây áp lực lớn cho sự phát triển của ngành trồng trọt nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung.

Tổng diện tích gieo trồng lúa ở ĐBSCL chiếm 53,4% tổng diện tích gieo trồng lúa cả nước. Hiện nay, mức độ nhiễm mặn trên 0,4‰ đã lấn sâu vào 30- 40km tại một số nơi ở ĐBSCL và Đồng bằng sông Hồng.

Diện tích bị mặn trên 0,4 ‰ hiện nay là khoảng 1,3 triệu hecta. Diện tích này sẽ tăng lên 1,4 triệu hecta ứng với kịch bản nước biển dâng 0,69m và 1,64 triệu hecta với kịch bản nước biển dâng 1m ở khu vực ĐBSCL.

Không chỉ 2 vựa lúa lớn nhất của Việt Nam là ĐBSCL và Đồng bằng sông Hồng chịu tác động của biến đổi khí hậu. Vùng núi Tây Bắc và Đông Bắc sẽ phải đối mặt với nguy cơ tăng cường độ hạn hán do biến đổi khắc nghiệt của thời tiết trong những năm tới.

Tại Bắc Trung Bộ, trong tháng 5- 6 có thể trở thành các tháng khô nóng thường xuyên như ở Nam Trung Bộ, mưa phùn trở nên hiếm hoi.

Còn tại khu vực Tây Nguyên, tính bất ổn trong chế độ mưa cũng tăng lên khiến vùng này có khả năng đối mặt với nguy cơ hạn hán bất thường. Xu hướng này ngày càng rõ ràng khi các tỉnh duyên hải miền Trung và Tây Nguyên đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước sản xuất trong vụ Đông Xuân 2012- 2013 và cả vụ Hè Thu cùng vụ mùa năm 2013- ông Phạm Đồng Quảng cho hay.

Hạt lúa Việt giải bài toán biến đổi khí hậu

Không những thế, biến đổi khí hậu còn làm thay đổi điều kiện sống của các loài sinh vật, làm gia tăng một số loài dịch hại mới và các đợt dịch bùng phát trên diện rộng. Đơn cử, trong khoảng 3 năm trở lại đây, dịch rầy nâu và vàng lùn, lùn xoắn lá trên cây lúa đã làm giảm đáng kể sản lượng lúa ở khu vực ĐBSCL.

Đặc biệt, trong năm 2010, tại ĐBSCL đã xảy ra dịch sâu cuốn lá nhỏ gây thiệt hại khoảng 400.000ha lúa, khiến năng suất lúa giảm từ 30-70%.

GS.TS Lê Văn Bảnh nhìn nhận: Vấn đề biến đổi khí hậu, khô hạn, xâm nhập mặn, nước biển dâng cũng là một thách thức đối với những nhà khoa học về nông nghiệp. Việc nghiên cứu, sản xuất ra những giống lúa thích ứng được các tiêu chí chịu khô hạn, chịu mặn đang là đòi hỏi bức thiết từ cuộc sống.


Nông dân ĐBSCL phơi lúa. Ảnh: HÀ VĨNH THÁI

Từ năm 2006 đến nay, các nhà khoa học Viện Lúa ĐBSCL đã cho ra đời 16 giống lúa có khả năng chịu mặn: OM6073, OM5199, OM2496, OM6071, OM5464, OM2488, OM2818, OM6379, OM6677, OM6074, OM4276, OM669, OM5651, OM6521… các giống chịu hạn: OM6162, OM5239… được Bộ Nông nghiệp- PTNT công nhận là giống quốc gia. Các giống này đều đã được đưa vào sản xuất đại trà tại các tỉnh ven biển miền Trung và các tỉnh khu vực ĐBSCL.

Những giống này có ưu điểm kháng sâu bệnh tốt, cho năng suất cao, ổn định từ 5- 7 tấn/ha, phẩm chất gạo tốt, đạt chuẩn xuất khẩu và đã được Cục Trồng trọt khuyến khích nông dân sử dụng rộng rãi trong điều kiện nước mặn xâm nhập và tình hình khô hạn như hiện nay.

Có thể nói, biến đổi khí hậu tác động mạnh đến nền kinh tế toàn cầu và Việt Nam ứng phó với thách thức này chủ yếu theo hướng thích ứng. Đối với sản xuất nông nghiệp, để thích ứng với biến đổi khí hậu, chúng ta đã có những giải pháp như điều chỉnh cơ cấu cây trồng và thời vụ phù hợp với hoàn cảnh biến đổi khí hậu; đa dạng hóa hoạt động xen canh, luân canh; cải thiện hiệu quả tưới tiêu nông nghiệp; tổ chức cảnh báo lũ lụt, hạn hán.
 
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, nước ta vẫn đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đây là bài toán mà nông nghiệp của Việt Nam phải giải đáp trong tương lai.

 

Tiến sĩ Nguyễn Thị Lang- Trưởng Bộ môn Di truyền và chọn giống, Viện Lúa ĐBSCL cho biết: “Chúng tôi đang thực hiện chương trình do Chính phủ Úc, Nhật, Đức đầu tư nghiên cứu giống lúa phù hợp với biến đổi khí hậu: chịu ngập, chịu mặn. Để nghiên cứu tăng năng suất một giống lúa, chúng ta phải mất từ 5- 10 năm nhưng để nghiên cứu giống lúa có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu phải mất từ 10- 20 năm. Hiện nay, giống lúa của chúng ta có thể chịu được độ mặn 4- 5 ‰, hướng phấn đấu trong tương lai phải từ 6- 7 ‰. Mục tiêu phấn đấu của chúng tôi là nghiên cứu những giống lúa vừa chịu mặn vừa phải có khả năng chịu ngập. Nghiên cứu giống lúa chịu ngập là rất khó.

HÀ VĨNH THÁI

Đường dây nóng: 0987083838.

Phóng sự ảnh