Có những luồng ý kiến thắc mắc là vì sao khi lâm vào bế tắc mà Trung Quốc không huy động đến những lực lượng nòng cốt của quân đội, có khả năng tấn công mạnh như không quân hay tên lửa. Còn Việt Nam vì sao cũng không dùng đến lực lượng không quân lúc đó đang rất mạnh?
Có những luồng ý kiến thắc mắc là vì sao khi lâm vào bế tắc mà Trung Quốc không huy động đến những lực lượng nòng cốt của quân đội, có khả năng tấn công mạnh như không quân hay tên lửa. Còn Việt Nam vì sao cũng không dùng đến lực lượng không quân lúc đó đang rất mạnh?
Vào thời điểm cuối thập niên 70, Việt Nam có một lực lượng phòng không-không quân vào hàng mạnh nhất thế giới. |
Tại sao Trung Quốc không dám sử dụng không quân?
Điểm lại sẽ thấy Trung Quốc triển khai các mũi tấn công chính đều tập trung vào các thị xã, thị trấn lớn và các cửa khẩu quan trọng trên biên giới. Các mũi tấn công nhỏ tuy nhiều nhưng chủ yếu làm nhiệm vụ căng kéo lực lượng ta và đánh chiếm những khu vực không quan trọng.
Như vậy, rõ ràng là trước khi tiến hành chiến tranh xâm lược, Trung Quốc không có ý đồ đánh xuống Hà Nội. Sau giai đoạn 2, Bắc Kinh lại càng không dám bởi lúc đó đã thiệt hại quá nặng nề. Ngay cả trong trường hợp nếu chiếm được 5 tỉnh phía Bắc một cách thuận lợi, quân xâm lược cũng không dám và không thể đánh xuống khu vực đồng bằng của ta.
Việc này trước hết xuất phát từ tuyên bố về một cuộc chiến “phản kích tự vệ”, giới hạn cuộc chiến trong phạm vi một cuộc xung đột biên giới nên Bắc Kinh không thể xua quân xuống đồng bằng nước ta, để lòi cái đuôi xâm lược, sẽ bị thế giới phản đối mà cũng bị đặt trong tình trạng bị Liên Xô tấn công bất cứ lúc nào.
Ngược dòng lịch sử, trước cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Trung Quốc cũng đã từng chủ động gây ra 2 cuộc chiến tranh biên giới quy mô lớn với Ấn Độ (năm 1962) và Liên Xô (năm 1969), đều với lý do được tuyên bố là đáp trả những hành động xâm lấn của đối phương.
Trong cả 2 cuộc chiến này, cả Liên Xô, Trung Quốc và Ấn Độ đều chỉ sử dụng các lực lượng bộ binh các quân khu, lực lượng biên phòng và dân binh, không huy động đến không quân, tên lửa…, do tính chất ban đầu của cuộc chiến đã được Bắc Kinh tuyên bố rõ ràng là “xung đột biên giới”.
Một thời gian dài trước các cuộc chiến tranh biên giới với Liên Xô, Ấn Độ và cả Việt Nam thì Trung Quốc bao giờ cũng chủ động gây ra các mâu thuẫn về biên giới, gây dư luận về tình hình tranh chấp chủ quyền căng thẳng giữa các nước để tạo cớ cho việc gây chiến.
Ví dụ như ở Việt Nam, từ năm 1978 đến đầu năm 1979, mức độ xâm phạm lãnh thổ, hoạt động vũ trang mang tính khiêu khích tại biên giới Việt Nam của Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng. Theo công bố trong Bị vong lục của Bộ Ngoại giao ngày 15/2/1979, số vụ xâm phạm vũ trang của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam năm 1978 là 583 vụ, tăng đột biến so với những năm trước đó, đồng thời, việc làn sóng người Việt gốc Hoa về nước ùn ứ lại các cửa khẩu cũng gây ra những căng thẳng lớn.
Năm 1979, chỉ trong tháng 1 và chưa đến nửa đầu tháng 2, số vụ xâm phạm biên giới của binh lính Trung Quốc đã lên tới 230 vụ, gần bằng nửa so với cả năm 1978. Không những vậy, Trung Quốc còn cho trên 100 lượt máy bay xâm phạm vùng trời và 481 lượt tàu thuyền hoạt động khiêu khích trên vùng biển nước ta. Việt Nam đã phải nhiều lần ra tuyên bố và gửi công hàm phản đối hành động xâm phạm biên giới Việt Nam tới Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
Điều này cũng cho thấy rằng, Trung Quốc đã manh nha kế hoạch xâm lược từ rất lâu và chủ động tạo cớ cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta ngay từ đầu năm 1978. Đây là dấu hiệu quan trọng để nhận diện những hành động quân sự nguy hiểm của Trung Quốc ngay từ giai đoạn manh nha ý đồ.
Trở lại với các cuộc chiến Trung- Xô và Trung- Ấn, do Trung Quốc gây ra, dù ai thắng, ai bại thì cả 3 nước đều không muốn leo thang xung đột với các đối thủ mạnh, kể cả bên chủ động tấn công là Trung Quốc. Do đó, họ đều chỉ sử dụng các lực lượng tác chiến trên bộ.
Mục đích của cả Liên Xô, Trung Quốc và Ấn Độ đều là nhằm giới hạn phạm vi của cuộc chiến về vấn đề tranh chấp biên giới, vì nó dễ dàng đình chiến và đàm phán thỏa hiệp hơn nhiều so với một cuộc chiến tranh bị quy là xâm lược hoặc chiến tranh quy mô lớn.
Không ngoài mục đích này, trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, mặc dù cũng đã huy động ra các sân bay tuyến 1 tới 1.700 chiến đấu cơ các loại nhưng máy bay chiến đấu của Trung Quốc không dám bay sang đánh phá Việt Nam mà chỉ bay trợ chiến bên không phận của họ. Tuy họ có số lượng máy bay rất lớn nhưng phi công không có kinh nghiệm tác chiến, còn thế hệ phi công cũ trong chiến tranh Triều Tiên vào thập niên 50 đều đã nghỉ hưu.
Ngoài lý do muốn hạn chế quy mô và tính chất chiến tranh, ngay từ đầu Trung Quốc cũng xác định không thể đánh nổi xuống Hà Nội là do thời điểm đó, lực lượng tham chiến ban đầu chủ yếu là bộ đội địa phương và dân quân, du kích mà họ cũng không thể thắng nổi.
Trong khi đó, lực lượng chủ lực rất mạnh của Quân đoàn 1 Việt Nam đang triển khai ở khu vực phía Bắc và đã dàn trận bảo vệ Thủ đô. Nếu tiến qua được tuyến phòng thủ biên giới, Trung Quốc cũng hao tổn binh lực quá lớn, do gặp chủ lực của Quân đoàn 1. Còn các sư đoàn tăng cường từ miền Trung, miền Nam và mặt trận Tây Nam chắc chắn sẽ được điều động về tham chiến. Đến khi quân Trung Quốc đã mỏi mệt, họ sẽ phải nhận thất bại thảm hại hơn.
Hơn nữa, khi tiến xuống đồng bằng, để đối phó với lực lượng chính quy lớn, được viện trợ những vũ khí hiện đại nhất của Liên Xô thì Trung Quốc xác định không thể giành chiến thắng chỉ bằng với lực lượng lục quân, mà phải sử dụng các lực lượng tấn công mạnh như không quân.
Song khi đó, xung đột quân sự sẽ biến thành cuộc chiến tranh xâm lược quy mô, Trung Quốc không còn có thể rêu rao là chiến tranh “phản kích tự vệ” khu vực biên giới, mà rõ ràng là điều này sẽ gây nhiều bất lợi về ngoại giao cho Trung Quốc, hơn nữa còn khiến họ có thể lâm vào tình trạng “lưỡng đầu thọ địch”.
(Còn tiếp)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin