Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động

Cập nhật, 14:47, Thứ Ba, 16/01/2018 (GMT+7)

Bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh (ngụ Phường 4- TP Vĩnh Long) hỏi: Tôi có ký hợp đồng lao động (HĐLĐ) với một công ty.

Ngày 25/10/17, tôi nộp đơn xin nghỉ việc tại công ty này, đồng thời tôi cũng hoàn tất việc bàn giao vào ngày 26/10/2017 và giám đốc công ty ký duyệt cho tôi được nghỉ việc từ ngày 15/11/2017.

Thế nhưng đến ngày 29/12/2017, tôi mới nhận được quyết định chấm dứt HĐLĐ nhưng trong quyết định chấm dứt HĐLĐ ghi ngày 12/12/2017. Xin hỏi, việc ký quyết định lùi ngày như vậy có vi phạm Luật Lao động không (quy định trong vòng 45 ngày sau khi nhận đơn nghỉ việc không)?

Sau khi nhận thư, chúng tôi đã liên hệ với Phòng Lao động- Tiền lương- BHXH thuộc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh Vĩnh Long và được trả lời như sau:

Bạn không nói rõ quy trình giải quyết nghỉ việc, việc phê duyệt của công ty cho bạn nghỉ việc bằng hình thức nào, song như trình bày thì bạn làm đơn xin nghỉ việc. Theo quy định của Bộ luật Lao động thì bạn đã đơn phương chấm dứt HĐLĐ, vì vậy chúng tôi trả lời những quy định chung về việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của người lao động để bạn tham khảo.

Theo quy định tại Điều 37 Bộ luật Lao động 2012 về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ: Người lao động làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn; HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn trong những trường hợp sau:

Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong HĐLĐ; không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong HĐLĐ;

bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ; được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

Khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo quy định trên, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước: Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 điều này;

ít nhất 30 ngày nếu là HĐLĐ xác định thời hạn; ít nhất 3 ngày làm việc nếu là HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 điều này; đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của bộ luật này.

Người lao động làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của bộ luật này.

Điều 47 Bộ luật Lao động 2012 quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt HĐLĐ.

Ít nhất 15 ngày trước ngày HĐLĐ xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt HĐLĐ.

Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ, 2 bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.

Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ BHXH và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động.

Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản thì tiền lương, trợ cấp thôi việc, BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và HĐLĐ đã ký kết được ưu tiên thanh toán.

PHÒNG BẠN ĐỌC