Tập trung cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của tỉnh

Cập nhật, 07:07, Chủ Nhật, 29/01/2017 (GMT+7)

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và phấn đấu đến năm 2020 Vĩnh Long trở thành tỉnh khá trong khu vực, ngay từ lúc này, tỉnh Vĩnh Long đã bắt đầu tăng tốc để thực hiện những kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

Trước thềm năm Đinh Dậu 2017, phóng viên Báo Vĩnh Long có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Quang- Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh về những kế hoạch chủ yếu để tập trung thực hiện trong năm 2017.

TS. Nguyễn Văn Quang- phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh
TS. Nguyễn Văn Quang- phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh

Qua một năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, Vĩnh Long đã đạt những thành tựu nổi bật gì?

- Là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, với những thuận lợi, khó khăn đan xen nhưng Đảng, chính quyền và nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực thực hiện đạt được nhiều kết quả tích cực, trong đó có những thành tựu nổi bật, tạo sự thuận lợi, nền tảng bước đầu cho những năm tiếp theo, đó là:

Kinh tế tiếp tục phát triển, GRDP năm 2016 tăng 5,21%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng với tỷ trọng khu vực công nghiệp- xây dựng và dịch vụ tiếp tục tăng. GRDP bình quân đầu người ước đạt 41,1 triệu đồng, tăng gần 3,3 triệu đồng so với năm 2015.

Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh tiếp tục được cải thiện, năm 2015 xếp hạng 19/63 tỉnh- thành, tăng 12,1 điểm và tăng 38 bậc so với năm 2014. Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2015 của Vĩnh Long được xếp hạng 14/63 tỉnh- thành, tăng 7 bậc so với năm 2014, đứng ở nhóm có điểm số cao.

Thu hút đầu tư có bước chuyển biến tích cực, số doanh nghiệp đăng ký thành lập và đầu tư tăng cao hơn năm trước, trong đó đã thu hút được 8 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vốn đăng ký 137,67 triệu USD, tăng 10,7 lần so với năm 2015.

Xuất khẩu được phục hồi, giá trị đạt cao so với cùng kỳ và kế hoạch. Thu ngân sách vượt kế hoạch và tăng so với năm trước; lãi suất tín dụng ở mức thấp (6- 7 %/năm), dư nợ tín dụng trung, dài hạn tăng khá từ 9- 11% (tăng 21,42% so với cùng kỳ năm trước).

Các chính sách an sinh xã hội được thực hiện tốt, nhất là chính sách cho người có công; đặc biệt là hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo đồng bào dân tộc (1.592 căn); đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện; bộ mặt nông thôn tiếp tục được đổi mới; giảm nghèo đạt kết quả tích cực, năm 2016 giảm 1,48%, kéo tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm còn 4,78% và vượt chỉ tiêu đề ra.

Phổ cập giáo dục tiếp tục được giữ vững và tỷ lệ đạt chuẩn tăng, trong năm đã hoàn thành phổ cập giáo dục trẻ mầm non 5 tuổi; số lượng trường chuẩn đạt chuẩn quốc gia đạt 37,8%, tăng 21 trường so với năm trước.

Trong chỉ đạo điều hành, cấp ủy và chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở đã thể hiện được tinh thần trách nhiệm, tính năng động, tiên phong, gương mẫu của mình, qua đó đã tiếp cận và nỗ lực xử lý nhanh, quyết liệt, kịp thời trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, việc ứng phó, khắc phục những ảnh hưởng, thiệt hại do tác động tiêu cực của diễn biến hạn mặn, sự cố sạt lở, vỡ đê bao do triều cường, về xây dựng nông thôn mới, thực hiện kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản,… và đặc biệt tăng cường hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nên đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ công chức viên chức, góp phần tăng được sự đồng thuận của người dân và cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn.

Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Quang khảo sát thực tế tại Siêu thị hàng nhựa gia dụng Nam Hưng Mekomart. Ảnh: XUÂN TƯƠI
Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Quang khảo sát thực tế tại Siêu thị hàng nhựa gia dụng Nam Hưng Mekomart. Ảnh: XUÂN TƯƠI

Năm 2016, trước những thay đổi bất thường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, Vĩnh Long cũng chịu ảnh hưởng khá nặng nề, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp. Ông có thể đánh giá sơ bộ những thiệt hại, cũng như những giải pháp để đối phó trong thời gian tới?

- Phải nhìn nhận rằng trong năm qua, không riêng tại tỉnh Vĩnh Long chịu ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; vấn đề hạn hán, xâm nhập mặn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả vùng ĐBSCL.

Mùa mưa năm 2015 đến muộn, kết thúc sớm, tổng lượng mưa thiếu hụt so với trung bình nhiều năm; những tháng đầu năm 2016 dòng chảy từ sông Mekong suy giảm hạn hán và xâm nhập mặn sớm sâu nhất trong lịch sử đã xảy ra, nước mặn lấn sâu vào đất liền tới 70- 90km, sâu hơn trung bình nhiều năm từ 15- 20km làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của người dân.

Riêng tại tỉnh Vĩnh Long, trong năm qua độ mặn lên mức kỷ lục, diện ảnh hưởng rộng và thời gian kéo dài hơn những năm trước.

Từ trung tuần tháng 12/2015 đã có một đợt mặn lên cao với độ mặn cao nhất đạt 6‰; riêng giữa đầu tháng 2 và tháng 3/2016 độ mặn đạt cao nhất dao động 4,2- 9,2‰, có nơi đạt đến 13,6‰; sau đó độ mặn giảm mạnh đến tháng 5/2016 độ mặn còn < 0,5‰.

2 huyện bị ảnh hưởng xâm nhập mặn thường niên là Vũng Liêm và Trà Ôn; ngoài ra còn có Mang Thít, Tam Bình và TX Bình Minh. Ước tính thiệt hại do hạn, mặn từ đầu năm đến nay là 293.373,32 triệu đồng gồm có: thiệt hại do hạn: 1.734ha lúa và 150ha rau màu ở Vũng Liêm; thiệt hại do mặn: 18.028,86ha lúa; 518,58ha màu; 4.632,2ha cây ăn trái ở Vũng Liêm, Trà Ôn và Mang Thít.

Thật vậy, tính đến thời điểm hiện tại, tình trạng hạn, mặn trong những tháng đầu năm và mưa lớn trong vụ Hè Thu và Thu Đông đã ảnh hưởng lớn đến kết quả thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp.

Giá trị sản xuất nông- lâm- thủy sản giảm 2,84% so với 2015; trong đó năng suất lúa cả năm chỉ bằng 89,92% của năm 2015 (giảm hơn 10% so với năm 2015).

Ngoài ra, liên quan đến vấn đề thiệt hại do thiên tai trên địa bàn tỉnh phải kể đến là giông, lốc; sạt lở bờ sông; lũ lụt, triều cường cũng gây thiệt hại đáng kể cho sản xuất trong năm 2016.

Trong thời gian tới, thích ứng linh hoạt với các tác động do biến đổi khí hậu, nước biển dâng là yêu cầu bức thiết; theo dự báo có khả năng hạn và mặn sẽ gay gắt hơn 2016. Vì vậy, tỉnh Vĩnh Long chỉ đạo thực hiện một số giải pháp như sau:

Chỉ đạo cơ quan chuyên môn theo dõi sát tình hình khí tượng, thủy văn nói chung và diễn biến hạn, mặn nói riêng; thông báo nhanh chóng, kịp thời để người dân chủ động đối phó; kịp thời hỗ trợ, khắc phục khi thiên tai xảy ra.

Về giải pháp công trình: Đẩy mạnh phát triển thủy lợi, đầu tư hạ tầng, nâng cao năng lực phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Hoàn thiện hệ thống thủy lợi theo hướng phục vụ đa mục tiêu (vừa tưới, vừa tiêu, vừa ngăn mặn, vừa giữ ngọt).

Trong năm 2017, ưu tiên xây dựng các công trình thủy lợi và nước sạch: nạo vét kinh mương nội đồng, trữ nước ngọt, bơm tát chống hạn; sửa chữa, nâng cấp trạm cấp nước tập trung.

Về giải pháp phi công trình: bố trí, sắp xếp lại mùa vụ sản xuất; khuyến khích chuyển đổi 3 vụ lúa sang 2 vụ lúa- 1 vụ màu; ứng dụng mạnh mẽ các giải pháp kỹ thuật tiết kiệm nước; sử dụng giống lúa, nhóm cây trồng, vật nuôi và xây dựng mô hình canh tác thích ứng với hạn, mặn…

Về lâu dài, tỉnh đang quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp, thủy sản, thủy lợi, cung cấp nước sạch cho phù hợp với biến đổi khí hậu, để từ đó đề ra có biện pháp, giải pháp phù hợp và bền vững hơn.

Hy vọng trong năm 2017 sẽ hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra và không bị bất ngờ khi xảy ra hạn, xâm nhập mặn như năm 2016.

Tỉnh sẽ tiếp tục triển khai thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp trên các lĩnh vực, trong đó tập trung phát triển các sản phẩm nông sản chủ lực. Trong ảnh: Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Quang trao đổi với nông dân xã Ngãi Tứ (Tam Bình) về mô hình trồng màu trên đất lúa. Ảnh: XUÂN TƯƠI
Tỉnh sẽ tiếp tục triển khai thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp trên các lĩnh vực, trong đó tập trung phát triển các sản phẩm nông sản chủ lực. Trong ảnh: Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Quang trao đổi với nông dân xã Ngãi Tứ (Tam Bình) về mô hình trồng màu trên đất lúa. Ảnh: XUÂN TƯƠI

Cũng liên quan đến vấn đề nông nghiệp, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2016- 2020 vẫn xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Theo đó, tỉnh đã triển khai Đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị. Ông có thể đánh giá những kết quả bước đầu của đề án này và những bước đi tiếp theo là gì?

- Cơ cấu nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long qua 3 năm đã thu được nhiều kết quả quan trọng, bước đầu làm chuyển biến nhận thức của toàn xã hội về cơ cấu lại nông nghiệp; xu hướng sản xuất theo chất lượng và an toàn thực phẩm, sản xuất theo các quy trình chất lượng được chú trọng, cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng.

Một số sản phẩm chủ lực đã có điều kiện phát triển như sản xuất lúa gạo, khoai lang, cam sành, bưởi Năm Roi, cá tra, chăn nuôi heo,… phần lớn đã hình thành được các vùng sản xuất tập trung với quy mô lớn, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho năng suất cao và chất lượng tốt.

Nhờ đó, đời sống người nông dân được cải thiện, thu nhập năm 2016 ước đạt 30 triệu đồng/người, bằng 1,38 lần so năm 2013.

Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp đúng hướng: trồng trọt giảm, chăn nuôi tăng. Giai đoạn 2014- 2016 trồng trọt giảm 1,84%; chăn nuôi tăng 1,9%.

Giá trị sản xuất nông- lâm- thủy sản giai đoạn 2014- 2016 tăng bình quân 0,34 %/năm; giá trị sản phẩm trồng trọt và nuôi trồng thủy sản đến cuối năm 2015 đạt 150,75 triệu đồng/ha.

Tuy nhiên, đánh giá tổng thể cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch vẫn còn chậm, khả năng tạo ra tăng trưởng yếu; sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là khâu liên kết và tiêu thụ sản phẩm.

Thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chưa nhiều. Vấn đề nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm chưa được chú trọng đúng mức, đồng thời chưa thể hiện điểm nhấn rõ rệt trong quá trình cơ cấu lại.

Nhằm khắc phục những hạn chế, phát huy hiệu quả Đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp, Tỉnh ủy Vĩnh Long đã chỉ đạo hiệu chỉnh “Đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030” cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Trong đó, tập trung vào các vấn đề trọng tâm như sau:

Xác định mục tiêu cụ thể của cơ cấu lại giai đoạn 2017- 2020 và tầm nhìn đến 2030. Phấn đấu giá trị sản xuất nông- lâm- thủy sản giai đoạn 2017- 2020 tăng bình quân 3,5 %/năm và giai đoạn 2021- 2030 đạt 2,5- 3 %/năm; giá trị sản phẩm trồng trọt và nuôi trồng thủy sản đạt 200 triệu đồng/ha đến năm 2020 và đạt 360 triệu đồng/ha vào năm 2030.

Tập trung lựa chọn cây trồng, vật nuôi có thế mạnh để ưu tiên đầu tư theo hướng xây dựng chuỗi giá trị ngành hàng của từng sản phẩm. Trong đó, cây chủ lực là lúa, khoai lang và cây có múi như cam sành, bưởi Năm Roi, bưởi da xanh; đối tượng chăn nuôi và thủy sản gồm heo, bò, cá tra và cá lồng bè.

Xây dựng và triển khai các chương trình trọng điểm để nâng cao giá trị và phát triển bền vững, trong đó chú trọng chương trình giống nông nghiệp, chương trình phát triển các sản phẩm nông sản chủ lực, chương trình ứng dụng khoa học công nghệ và chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm cụ thể hóa các nội dung thực hiện cơ cấu lại.

Chú trọng và phát huy vai trò của doanh nghiệp, hợp tác xã trong thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp, xây dựng chuỗi giá trị nông sản.

Đồng thời tỉnh sẽ dành nguồn lực nhiều hơn cho việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ cơ cấu lại nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Tỉnh tiếp tục ưu tiên đầu tư những dự án quan trọng có hiệu quả.
Tỉnh tiếp tục ưu tiên đầu tư những dự án quan trọng có hiệu quả.

Để phấn đấu trở thành tỉnh khá trong khu vực vào năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, Vĩnh Long sẽ tập trung vào những khâu đột phá nào và giải pháp để thực hiện những khâu đột phá đó?

- Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và phấn đấu đến năm 2020 Vĩnh Long trở thành tỉnh khá trong khu vực, tỉnh đã chọn 3 khâu đột phá: 

Thứ nhất, phát triển và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao. Mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục, đào tạo và nâng cao kỹ năng để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội nhanh và bền vững. 

Thứ hai, tiếp tục ưu tiên đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Ưu tiên đầu tư những dự án quan trọng có hiệu quả, tạo sự đột phá và có tác động lan tỏa tích cực đến thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển của tỉnh, nhất là đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao. 

Thứ ba, tập trung thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp chế biến, đẩy mạnh thương mại- dịch vụ, góp phần tiêu thụ sản phẩm.

Để đạt được các mục tiêu trên, Vĩnh Long đã và đang tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:

Đối với phát triển nguồn nhân lực: Phát triển GD- ĐT và dạy nghề, lấy đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao làm trọng tâm, quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ doanh nhân, quản trị doanh nghiệp, lao động lành nghề, lao động vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc.

Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện GD- ĐT nhằm tạo sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả của GD- ĐT và dạy nghề theo Luật Giáo dục nghề nghiệp.

Đầu tư thiết bị, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực GD- ĐT.

Đối với hệ thống kết cấu hạ tầng: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội đồng bộ, bảo đảm hiệu quả tổng hợp, tính kết nối hệ thống, nhất là mạng lưới giao thông, điện, thủy lợi, kết cấu hạ tầng đô thị và hạ tầng công nghệ thông tin. Trước hết, tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nhằm bảo đảm tính đồng bộ, kết nối trong nội bộ ngành, liên ngành, địa phương trong tỉnh và vùng; lựa chọn, tập trung huy động các nguồn vốn đầu tư một số dự án, công trình quan trọng có sức lan tỏa, tạo đột phá lớn, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội; nâng cấp và phát triển đô thị theo hướng đồng bộ, hiện đại, phát huy vai trò đầu tàu của TP Vĩnh Long và TX Bình Minh, tạo động lực để các đô thị khác cùng phát triển.

Về thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp thương mại- dịch vụ: đổi mới và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, thu hút đầu tư theo hướng đa dạng hóa nguồn vốn và hình thức đầu tư; chuẩn bị quỹ đất minh bạch, danh mục các dự án đầu tư mang tính khả thi cao và phù hợp với điều kiện của tỉnh.

Phát triển công nghiệp, tiểu- thủ công nghiệp, làng nghề gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, đô thị hóa. Tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến gắn với đẩy mạnh thương mại- dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm cho nông nghiệp, nông thôn; công nghiệp phụ trợ và công nghiệp sử dụng nhiều lao động để tạo nền tảng, tăng cơ hội tham gia và gia tăng chuỗi giá trị, nâng cao lợi thế cạnh tranh.

Phát triển thương mại- dịch vụ theo hướng phát huy lợi thế của thương mại truyền thống với hiện đại. Triển khai hiệu quả đề án phát triển thương mại điện tử, hỗ trợ xây dựng và phát triển thương hiệu, nâng cao năng lực xuất khẩu của tỉnh.

Mở rộng quan hệ hợp tác giữa các thành phần kinh tế, liên kết chặt chẽ với các thị trường trong và ngoài nước, từng bước tăng cường mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm chủ lực và các mặt hàng nông sản, thực phẩm của địa phương.

Phát triển và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là ưu tiên để thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội.
Phát triển và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là ưu tiên để thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội.

Từ những thuận lợi, khó khăn hiện tại cũng như dự báo tới đây, xin ông cho biết nhiệm vụ trọng tâm nhất sẽ tập trung thực hiện cũng như những mục tiêu hướng tới trong năm 2017?

- Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2016- 2020, kết quả thực hiện của năm 2016 và dự báo tình hình trong và ngoài nước trong năm 2017, tỉnh đã đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một, tập trung cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của tỉnh, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cuối năm 2017 đạt 7,0%.

Trong đó, tiếp tục triển khai thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp trên các lĩnh vực; tập trung xây dựng và triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển các sản phẩm nông sản chủ lực cho giai đoạn đến 2020 theo hướng phát triển chuỗi ngành hàng (dự kiến: lúa, khoai lang, bưởi Năm Roi, bưởi da xanh, cam sành, dừa, cá tra, điêu hồng và heo).

Thực hiện Đề án cơ cấu lại ngành công thương theo chiều sâu, tăng cường hoạt động khuyến công, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường.

Hai, tiếp tục triển khai các chương trình hành động của Tỉnh ủy, kế hoạch của UBND tỉnh về thu hút vốn đầu tư; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật; phát triển đô thị và nhà ở; phát triển khu- cụm- tuyến công nghiệp giai đoạn 2016- 2020; ban hành chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư (thay thế Quyết định số 07/2013/QĐ-UBND), chương trình khởi nghiệp tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2016- 2020 tạo điều kiện tốt nhất để phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư vào tỉnh.

Tích cực, linh hoạt huy động thêm nguồn lực và đa dạng hóa hình thức đầu tư các công trình xây dựng cơ bản; tăng cường mời gọi đầu tư theo hình thức đối tác công tư nhằm thu hút thêm các nguồn lực mới phục vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, phấn đấu tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm sau đạt 13.500 tỷ đồng.

Tỉnh sẽ tập trung thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp chế biến, đẩy mạnh thương mại- dịch vụ, góp phần tiêu thụ sản phẩm.
Tỉnh sẽ tập trung thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp chế biến, đẩy mạnh thương mại- dịch vụ, góp phần tiêu thụ sản phẩm.

Ba, triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực quốc gia theo Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP; tập trung cải thiện cả về điểm số và vị trí xếp hạng về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của tỉnh Vĩnh Long, phấn đấu và giữ vững chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh từ nay đến năm 2020 nằm trong nhóm tốt của cả nước.

Tập trung hỗ trợ phát triển doanh nghiệp theo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ, tiếp tục giảm thiểu giấy tờ, rút ngắn thời gian, giảm chi phí trong đăng ký thành lập doanh nghiệp, cấp phép đầu tư, xây dựng, kê khai, nộp thuế; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp; tạo lập hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, ổn định, tự do sáng tạo cho doanh nghiệp khởi nghiệp.

Bốn, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện quyết liệt các giải pháp nâng cao chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI); tiếp tục cải thiện chất lượng và hiệu quả của cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh; tập trung triển khai xây dựng chính quyền điện tử theo Nghị quyết số 36a/NQ-CP của Chính phủ và đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin, nâng mức độ cung cấp các dịch vụ công trực tuyến để thực hiện liên thông giữa các cơ quan cùng cấp hành chính và giữa các cấp hành chính, nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch và giải quyết tốt công việc cho tổ chức, công dân và doanh nghiệp.

THANH TÂM (thực hiện)