Miền Nam nhớ Bác

Cập nhật, 21:58, Chủ Nhật, 25/02/2024 (GMT+7)

 

Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp với các anh hùng, chiến sĩ thi đua miền Nam tại khu vườn Phủ Chủ tịch ngày 15/11/1965. Ảnh: Tư liệu lịch sử
Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp với các anh hùng, chiến sĩ thi đua miền Nam tại khu vườn Phủ Chủ tịch ngày 15/11/1965. Ảnh: Tư liệu lịch sử

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà thơ tỉnh Tiền Giang Bảo Định Giang đã ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tháp Mười đẹp nhất bông sen/ Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.

Trong tâm thức của nhà thơ Bảo Định Giang, Chủ tịch Hồ Chí Minh là đại diện những gì cao đẹp nhất của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.

Người là vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc đã soi đường dẫn lối cho “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!” (thơ Nguyễn Đình Thi) làm cách mạng chống thực dân phong kiến và vươn lên xây dựng cuộc đời mới tươi đẹp trong chế độ mới của dân, do dân, vì dân.

Khắc ghi lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, Nhân dân miền Nam kết thành một “Thành đồng Tổ quốc” kháng chiến chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Khi thực dân Pháp đổ quân xuống Điện Biên Phủ, miền Nam đánh mạnh hơn để phân tán lực lượng...

Miền Nam cùng miền Bắc kết “vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” khiến thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải thất bại nhục nhã.

Trong ách kìm kẹp của đế quốc Mỹ, đồng bào miền Nam luôn nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu. Trước khi xung trận, những chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam hướng về ảnh Người tuyên thệ để thêm niềm quyết tâm.

Trong ngục tù, những chiến sĩ quả cảm của cách mạng mỗi ngày luôn nhẩm đọc lời Người dạy để tiếp thêm niềm tin chiến đấu.

Anh Nguyễn Văn Trỗi (Quảng Nam), người anh hùng tiêu biểu cho cả lớp người yêu nước ở miền Nam đã mang hình ảnh Bác trong trái tim của mình. Khi bị xử bắn, anh Trỗi đã hô to 3 lần “Hồ Chí Minh muôn năm!” thể hiện tấm lòng kiên trung, son sắt với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tháng 3/1969, khi gặp các đồng chí Phạm Hùng và Hoàng Văn Thái từ miền Nam ra họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc tới việc vào thăm miền Nam. Trước khi hai đồng chí trở lại chiến trường, Người hỏi: Các chú có thể chuẩn bị cho Bác sớm vào thăm đồng bào miền Nam được không?

Đồng chí Phạm Hùng và đồng chí Hoàng Văn Thái đã xúc động thưa: Chúng cháu nhất định hoàn thành nhiệm vụ để sớm rước Bác vào Nam. Chưa vào được miền Nam, Người yêu cầu hễ có đồng chí, đồng bào nào từ miền Nam ra thì phải cho Người biết và đưa vào gặp Người.

Khi nghe tin Chủ tịch Hồ Chí Minh mất (tháng 9/1969), Nhân dân miền Nam nghẹn ngào, đau đớn. Bất chấp mọi hiểm nguy đến tính mạng, đồng bào miền Nam tổ chức Lễ Truy điệu Người, lập bàn thờ Người ở chiến khu, ở ngay trong ấp chiến lược, ở ngay trong nhà, dưới hầm bí mật...

Chỉ tính vùng ĐBSCL trong 4 tháng cuối năm 1969 có gần 30 đền thờ Bác Hồ. Trong bài “Đền thờ Bác Hồ ở chót mũi Cà Mau”, nhà thơ tỉnh Tiền Giang Diệp Minh Tuyền đã viết: “Ở tận cùng mũi đất phương Nam/ Trong xanh rờn rừng đước/ Giữa ba bề rì rầm sóng nước/ Người quê tôi theo cách riêng mình/ Dựng một ngôi đền/ Thờ Bác kính yêu”.

Nhà thơ tỉnh Quảng Nam Thu Bồn cũng đã nói thay Nhân dân miền Nam tri ân công lao Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tiếc rằng trước lúc chia ly/ Con chưa thấy được dáng đi của Người/ Hẳn trong đôi mắt sáng ngời/ Vẫn nguyên vẹn một khoảng trời phương Nam…/ Việt Nam ơi giống Tiên Rồng/ Bốn nghìn năm lấy máu hồng làm hoa/ Gửi lòng con đến cùng Cha/ Chiến công đất nước kết hoa triệu vòng”.

Đó là tấm lòng chân thành với vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc trong bài thơ “Gửi lòng con đến cùng Cha” được nhà thơ Thu Bồn viết ngay trong tháng 9/1969.

Ngay trong tháng 9/1969, sau khi được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh- Người cha kính yêu của dân tộc Việt Nam qua đời, 5 tộc người dân tộc thiểu số bao gồm Cơ Tu, Tà Ôi, Pa Cô, Pa Hy, Bru- Vân Kiều ở miền Tây tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định mang họ Bác Hồ. Trong bài thơ “Bác ơi!” viết vào ngày 6/9/1969, nhà thơ xứ Huế Tố Hữu đã xúc động dâng trào: “Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà/ Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha!”.

Biến muôn vàn đau thương thành quyết tâm cách mạng theo lời Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy lúc sinh thời, Nhân dân miền Nam cùng với quân dân cả nước chiến đấu anh dũng, kiên cường, làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Vào 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Đó chính là thời khắc báo hiệu Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng và miền Nam được hoàn toàn giải phóng.

Tháng 4/1976, nhà thơ Viễn Phương (tỉnh An Giang) ra thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một cảm xúc dâng trào: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên/ Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền/ Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao nghe nhói ở trong tim/ Mai về miền Nam thương trào nước mắt/ Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác/ Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây/ Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” (Viếng lăng Bác).

Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ngày 2/7/1976) đã xem xét và thảo luận rằng: Nhân dân TP Sài Gòn- Gia Định luôn luôn tỏ lòng kính yêu vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và tha thiết với việc thành phố mang tên Người; trong công cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ, TP Sài Gòn- Gia Định đã không ngừng phát huy truyền thống kiên cường, bất khuất của dân tộc ta, lập được nhiều chiến công xuất sắc, xứng đáng được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Do đó, Quốc hội đã Quyết nghị: “Chính thức đặt tên TP Sài Gòn- Gia Định là TP Hồ Chí Minh”.

Năm 1969, các chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với những giây phút hạnh phúc được ở bên Bác Hồ. Ảnh: Tư liệu lịch sử
Năm 1969, các chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với những giây phút hạnh phúc được ở bên Bác Hồ. Ảnh: Tư liệu lịch sử

Cảm nhận sâu sắc về tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với miền Nam, ông Trần Bạch Đằng (Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh- Gia Định giai đoạn 1968-1971) khẳng định rằng: “Đối với miền Nam, vai trò lãnh tụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong 30 năm chiến tranh khốc liệt và mãi mãi là không thể thay thế.

Đó là vai trò của trí tuệ, của tấm lòng, của thái độ đối với cuộc sống. Đó là biểu tượng chân, thiện, mỹ; biểu tượng của hào khí và đức độ. Bác Hồ thuyết phục và cảm hóa. Bác Hồ là gắn chặt truyền thống dân tộc với điều kiện hiện đại, hòa lẫn cái tinh anh của quá khứ với cái tân kỳ của thế kỷ XX”.

NGUYỄN VĂN TOÀN