Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954- 7/5/2019)

Đồng bào các dân tộc Tây Bắc với chiến thắng lịch sử

Cập nhật, 10:33, Thứ Hai, 06/05/2019 (GMT+7)

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ 5/1954, quân và dân Tây Bắc đã có những đóng góp đáng kể vào chiến công chung của cả dân tộc ngay trên quê hương mình. Sự đóng góp của đồng bào các dân tộc Tây Bắc với Chiến dịch Điện Biên Phủ là hình ảnh đẹp, trong sáng của tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc miền xuôi và miền ngược tạo nên sức mạnh to lớn, sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc.

Vào lúc 17h30 ngày 7/5/1954, bộ đội Việt Nam giương cao lá cờ chiến thắng trên nóc hầm của Tướng De Castries. Ảnh: Getty
Vào lúc 17h30 ngày 7/5/1954, bộ đội Việt Nam giương cao lá cờ chiến thắng trên nóc hầm của Tướng De Castries. Ảnh: Getty

Che chở, bảo vệ và giúp bộ đội đánh địch 

Tây Bắc- vùng đất gồm 6 tỉnh ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, là nơi cư trú của hơn 30 dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tây Bắc là địa bàn chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh.

Trải qua các thời kỳ lịch sử, đặc biệt từ khi có Đảng tiên phong lãnh đạo, truyền thống đấu tranh cách mạng của quân và dân Tây Bắc luôn được giữ vững và ngày càng phát huy mạnh mẽ. 

Được sự giúp đỡ của đồng bào ở các tỉnh Tây Bắc trong các chiến dịch: Hòa Bình (1951) và Tây Bắc (1952), Thượng Lào (1953) và nhiều trận chiến đấu khác trên chiến trường Tây Bắc, bộ đội ta liên tục giành thắng lợi, làm cho bộ máy chỉ huy Pháp ở Bắc Bộ phải thường xuyên bị động, đối phó và thay đổi kế hoạch chiếm đóng.

Đồng bào luôn coi bộ đội như con em mình và đã làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ bộ đội chủ động đánh địch giải phóng quê hương. Đó là nguồn cổ vũ động viên lớn lao, một yếu tố để làm nên sức mạnh chính trị, tinh thần cho bộ đội trước những thử thách ác liệt ở chiến trường Tây Bắc. 

Khai thông và mở nhiều tuyến đường

Chuẩn bị chiến trường là một hoạt động đặc biệt quan trọng có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của chiến dịch mà trước hết là khai thông và mở nhiều tuyến đường để cơ động lực lượng, phương tiện chiến đấu, tiếp tế hậu cần, bảo đảm cho mặt trận. 

Tuyến tập kết hậu cần kỹ thuật của Chiến dịch Điện Biên Phủ ở xa vùng tự do Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, xa chiến khu Việt Bắc và đồng bào Bắc Bộ từ 500km đến 700km.

Lên Tây Bắc, Điện Biên Phủ lúc này chỉ có hai con đường: Đường số 41 và Đường số 13. Đó là hai tuyến đường chính dẫn ra mặt trận. Trên hai tuyến ấy đã in dấu tinh thần lao động quên mình của đồng bào Tây Bắc cùng với bộ đội Trung đoàn công binh 151 và hàng ngàn thanh niên xung phong. 

Đồng bào, bộ đội, thanh niên xung phong đã xẻ núi, làm cầu, kè ngầm, phát tuyến trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt ở Tây Bắc- mưa dài, nắng gắt và sự kiểm soát, bắn phá liên tục của các loại máy bay địch.

Những địa danh: đèo Lũng Lô, đèo Puốc, đèo Pha Đin, đèo Mèo... là chuỗi thử thách đối với các lực lượng tham gia chiến dịch mà tiên phong là lực lượng làm đường mở tuyến.

Tại những nơi này, đồng bào và các lực lượng làm đường đã phải lao động vô cùng vất vả, vật lộn với bao khó khăn thiếu thốn, không kể ngày đêm, nổ mìn, xẻ núi, vận chuyển hàng vạn mét khối đất đá, khẩn trương làm hàng ngàn cầu cống bằng những vật liệu khai thác tại chỗ và sự đóng góp của nhân dân dọc tuyến đường đi qua để thông tuyến kịp thời, đưa xe pháo vào mặt trận đúng kế hoạch.

Cùng với đó, bất cứ nơi nào có đường đi qua, đồng bào đều tự nguyện đóng góp tre, gỗ, nứa để chống lầy, chống sụt; làm cầu cống lán trại và các kho trung chuyển hậu cần, kỹ thuật phục vụ cho chiến dịch. 

Nói đến thành công của tuyến vận tải cho chiến dịch, không thể không nhắc đến một mạng lưới đường đặc biệt, đó là những con đường nhỏ chạy giữa điệp trùng rừng núi, những “con đường đồng bào”, “đường nhân dân”.

Có thể hình dung trên khắp miền Tây Bắc mạng đường này như chùm rễ cây, tất cả đều hướng về Điện Biên Phủ.

Mạng đường độc đáo ấy tạo nên tuyến vận chuyển có hiệu quả rất lớn bởi nó luồn dưới tán lá rừng điệp trùng, cơ động qua các loại địa hình phức tạp, tránh được sự kiểm soát của không quân địch, lại rất phù hợp với các phương tiện vận tải thô sơ và đôi chân trần của người nông dân Việt Nam. 

Huy động sức người, sức của cho công tác hậu cần 

Đây là một trong những khó khăn lớn nhất mà ngay từ khi quyết định mở chiến dịch, Trung ương Đảng và Chính phủ xác định: “Điện Biên Phủ là nơi xa hậu phương lớn. Để tiến hành chiến dịch, khó khăn lớn nhất của chúng ta là vấn đề cung cấp”. 

Khoảng cách từ hậu phương đến tiền tuyến rất lớn, tất cả mọi con đường đều phải vượt qua địa hình rừng núi, phương thức vận chuyển chủ yếu bằng sức người, với phương tiện rất thô sơ và luôn bị không quân địch tìm mọi cách đánh phá ngăn chặn.

Vậy nhưng, lửa đạn, gian khổ không ngăn được bước tiến của các đoàn dân công, các đoàn vận tải ngày đêm vận chuyển lương thực, thực phẩm, đạn dược đến Điện Biên Phủ cho bộ đội đánh giặc.

Những đôi bồ trên vai các anh chị dân công, những chiếc gùi hàng của đồng bào Việt Bắc, Tây Bắc, ngựa thồ, xe đạp... vẫn ngày, đêm nối nhau chuyển hàng ra hỏa tuyến. 

Tại địa phương, đồng bào các dân tộc Tây Bắc vừa là những người tham gia chuyển hàng, vừa là những giao liên thành thạo, luôn có mặt và đi đầu trong các đoàn người ra mặt trận.

Họ năng nổ, hăng hái giúp đỡ, chia sẻ những nỗi gian lao vất vả, tận tình với những người anh em ở các miền xa đến tham gia chiến dịch.

Trên các con đường nhỏ từ Việt Bắc sang, từ Khu 3, Khu 4 lên, nơi các con đường đi qua, mỗi bản làng của bà con Tây Bắc đều biến thành binh trạm, thành điểm dừng chân, thành các hội điểm giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, giữa các vùng miền. 

Ivon Panhinét- một sĩ quan cao cấp  của quân đội Pháp cho rằng: “Máy bay của ta (tức Pháp) đã thua đôi bồ của Việt Minh”, Ivon Panhinét không hiểu được nguyên nhân cơ bản để ta làm nên chiến thắng trong cuộc đối đầu lịch sử này chính là sự hòa đồng văn hóa của các dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một Đảng tiên phong, đã thống nhất được lợi ích của các dân tộc, tạo nên sức mạnh vô địch mà không có thứ vũ khí hiện đại nào có thể khuất phục được.

Đồng bào các dân tộc sống dọc sông Đà, sông Nậm Na- các chi lưu của đầu nguồn sông Mã và các sông suối đã có sự đóng góp cho thắng lợi của chiến dịch theo cách riêng của mình.

Trên tuyến đường thủy này nhiều bà con đã hiến những con thuyền, những chiếc bè vốn là tài sản duy nhất, là phương tiện, là nguồn sống của gia đình mà không ngại ngần tính toán.

Và với những kinh nghiệm lướt ghềnh, vượt thác của chính chủ nhân những phương tiện ấy đã góp phần không nhỏ để đưa hàng vạn tấn lương thực, đạn dược, súng pháo vượt qua mọi trắc trở, cập bến an toàn. 

Cùng với việc khẩn trương, quyết liệt vận chuyển từ hậu phương đồng bằng lên, Đảng, quân đội ta chủ trương đẩy mạnh khai thác hậu cần tại chỗ. Và đồng bào Tây Bắc đã làm tốt nhiệm vụ này thông qua việc nỗ lực tăng gia sản xuất, đóng góp hàng triệu tấn gạo, thịt, rau cho chiến dịch.

Bên cạnh đó, nhân dân Tây Bắc còn chăm lo cho bộ đội từ cái kim sợi chỉ, viên thuốc chữa bệnh và gửi hàng vạn bức thư cổ vũ thăm hỏi chiến sĩ… 

Với sự đóng góp to lớn của đồng bào dân tộc, sau 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non” ngày 7/5/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Một chiến thắng đi vào lịch sử “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

PV (theo TTXVN)