Thương tiếc cây đại thụ nhạc dân tộc Trần Văn Khê

Cập nhật, 15:16, Thứ Sáu, 26/06/2015 (GMT+7)

GS Trần Văn Khê là một nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền nổi tiếng của Việt Nam. Ông là Tiến sĩ ngành Âm nhạc học người Việt Nam đầu tiên tại Pháp và từng là giáo sư tại Đại học Sorbonne (Pháp), thành viên danh dự Hội đồng Âm nhạc quốc tế- UNESCO.

Ông là người có bề dày trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, có công lớn trong quảng bá âm nhạc Việt Nam nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung ra thế giới.

Giáo sư, Viện sĩ Trần Văn Khê.
Giáo sư, Viện sĩ Trần Văn Khê.

Trần Văn Khê sinh ngày 24/7/1921 tại làng Đông Hòa, tổng Thuận Bình- Mỹ Tho (nay là huyện Châu Thành- Tiền Giang) trong một gia đình có 4 đời làm nhạc sĩ, nên từ nhỏ ông đã làm quen với nhạc cổ truyền. Năm lên 6 tuổi, ông đã được cô (Ba Viện) và cậu (Năm Khương) dạy đờn kìm, đờn cò, đờn tranh, biết đờn những bản dễ như “Lưu Thủy”, “Bình Bán vắn”, “Kim Tiền”, “Long Hổ Hội”. Ông nội ông là Trần Quang Diệm (Năm Diệm), cha ông là Trần Quang Chiêu (Bảy Triều), cô là Trần Ngọc Viện (tức Ba Viện, người đã sáng lập gánh cải lương Đồng Nữ ban), đều là những nghệ nhân âm nhạc cổ truyền nổi tiếng. Cụ cố ngoại ông là tướng quân Nguyễn Tri Phương. Ông ngoại ông là Nguyễn Tri Túc, cũng say mê âm nhạc, có 3 người con đều theo nghiệp đờn ca. Một trong số đó là Nguyễn Tri Khương- thầy dạy nhạc và nhà soạn tuồng cải lương nổi tiếng. Riêng mẹ ông là Nguyễn Thị Dành (Tám Dành), sớm tham gia cách mạng, gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 và bị thương rồi mất trong năm đó. Cha ông vì thương nhớ vợ nên qua đời năm 1931. Ông có một người anh họ ngoại (con ông Nguyễn Tri Lạc) là nhạc sĩ Nguyễn Mỹ Ca.

Mồ côi từ rất sớm, mẹ mất năm 9 tuổi, cha mất năm 10 tuổi, nên ông cùng với 2 em là Trần Văn Trạch (là một ca sĩ nổi tiếng, có biệt danh Quái Kiệt), Trần Ngọc Sương được cô Ba Viện nuôi nấng. Cô Ba Viện rất thương, cho anh em ông đi học võ, học đờn kìm. Năm 10 tuổi, Trần Văn Khê đậu tiểu học, sang Tam Bình- Vĩnh Long nhờ người cô thứ Năm nuôi. Đến đây Trần Văn Khê được học chữ Hán với nhà thơ Thượng Tân Thị. Trong kỳ sơ học năm 1934 tại Vĩnh Long, ông đậu sơ học có phần Hán văn. Cả tỉnh chỉ có Trần Văn Khê và Nguyễn Trọng Danh được đậu bằng chữ Hán.

Năm 1934, ông vào Trường Trung học Trương Vĩnh Ký, được cấp học bổng. Học rất giỏi, năm 1938 ông được phần thưởng là một chuyến du lịch từ Sài Gòn đến Hà Nội, ghé qua Phan Thiết, Đà Nẵng, Nha Trang, Huế. Nhờ đậu tú tài phần nhất năm 1940, thủ khoa phần nhì năm 1941, ông được chính quyền Pháp thưởng cho đi du lịch cả nước Campuchia. Khi về Việt Nam, nhờ thầy Phạm Thiều giới thiệu, ông được Đông Hồ tiếp đãi, dẫn đi tham quan trong một tuần. Thời gian này, ông cùng Lưu Hữu Phước, Võ Văn Quan lập dàn nhạc của trường, và dàn nhạc của học sinh trong CLB học sinh mang tên là Scola Club của hội SAMIPIC. Ông là người chỉ huy 2 dàn nhạc đó.

Năm 1942, Trần Văn Khê ra Hà Nội học y khoa. Tại đây, cùng với Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Tấng (nay đổi thành Phạm Hữu Tùng), Nguyễn Thành Nguyên, hoạt động trong khuôn khổ của Tổng hội Sinh viên. Do thể hiện một trình độ cảm nhạc xuất sắc, ông được cử làm nhạc trưởng của dàn nhạc trường, nhân giới thiệu những bài hát của Lưu Hữu Phước. Ông còn tham gia phong trào “Truyền bá quốc ngữ” trong ban của GS Hoàng Xuân Hãn, “Truyền bá vệ sinh” của các sinh viên trường Thuốc, và cùng các bạn Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng tổ chức những chuyến “đi Hội đền Hùng”, và đi viếng sông Bạch Đằng, Ải Chi Lăng, đền Hai Bà Trưng.

Năm 1943, ông cưới bà Nguyễn Thị Sương, và sau đó có nhiều sự kiện làm Trần Văn Khê phải xin thôi học. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến một thời gian rồi về vùng Pháp kiểm soát cuối năm 1946.

Ông sang Pháp du học từ năm 1949. Hè năm 1951, ông thi đậu vào Trường Chính trị Khoa Giao dịch quốc tế. Cho đến năm 1958, ông theo học khoa Nhạc học và chuẩn bị luận án tiến sĩ dưới sự chỉ đạo của các Giáo sư Jacques Chailley, Emile Gaspardone và André Schaeffner. Tháng 6/ 1958, ông đậu Tiến sĩ Văn khoa (môn Nhạc học) của Đại học Sorbonne. Luận văn của ông có tên: “LaMusique vietnamienne traditionnelle” (Âm nhạc truyền thống Việt Nam).

Từ năm 1963, ông dạy trong Trung tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương, dưới sự bảo trợ của Viện Nhạc học Paris (Institut de Musicologie de Paris). Ông là thành viên của Viện Khoa học Pháp, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Châu Âu về Khoa học, Văn chương và Nghệ thuật cũng như nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế khác; là Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện Quốc tế nghiên cứu âm nhạc bằng phương pháp đối chiếu của Đức (International Institute for Comparative Music Studies).

Ông đã đi 67 nước trên thế giới để nói chuyện, giảng dạy về âm nhạc dân tộc Việt Nam.

Sau 50 năm nghiên cứu và giảng dạy ở Pháp, năm 2006, ông chính thức trở về sinh sống và tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy âm nhạc dân tộc tại Việt Nam. Ông cũng là người đã hiến tặng cho TP Hồ Chí Minh 420 hiện vật quý, trong đó có nhiều loại nhạc cụ dân tộc và tài liệu âm nhạc.

Sau một thời gian bị bệnh nặng, mặc dù được các bác sĩ tận tình điều trị nhưng ông không khỏi và qua đời vào 2 giờ 55 phút sáng 24/6/2015 tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định (TP Hồ Chí Minh).

Thực hiện theo bản di nguyện do Giáo sư lập ra, thi hài Giáo sư Trần Văn Khê được quàn tại tư gia, đường Huỳnh Đình Hai, quận Bình Thạnh- TP Hồ Chí Minh. Lễ tang của ông cũng diễn ra ở tư gia. Lễ nhập liệm diễn ra vào 10 giờ ngày 26/6. Lễ viếng bắt đầu từ 12 giờ trưa ngày 26/6 và kéo dài đến hết ngày 28/6. Lễ động quan diễn ra vào 6 giờ sáng 29/6.

Sau đó, linh cữu ông được đưa đi hỏa táng tại Nghĩa trang Hoa Viên, huyện Bến Cát- Bình Dương.

Giải thưởng trong nước, quốc tế của Trần Văn Khê

1949: Giải thưởng nhạc cụ dân tộc tại Liên hoan Thanh niên Budapest.

-Văn hóa bội tinh hạng nhất của Bộ Giáo dục miền Nam Việt Nam.

1975: Tiến sĩ âm nhạc danh dự (Docteur en musique, honoris causa) của Đại học Ottawa (Canada).

1981: Giải thưởng âm nhạc của UNESCO ở Hội đồng Quốc tế Âm nhạc (Prix UNESCO - CIM de la Musique).

1991: Officier de l’Ordre des Arts et des Lettres, Ministère de la Culture et de l’Information du Gouvernement français (Huy chương về Nghệ thuật và Văn chương của Bộ Văn hóa Pháp).

1993: Cử vào Hàn lâm viện Châu Âu về Khoa học, Văn chương, Nghệ thuật; Viện sĩ thông tấn.

1998: Huy chương Vì Văn hóa Dân tộc của Bộ Văn hóa Việt Nam.

1999: Huân chương Lao động hạng nhất của Chủ tịch nước.

2005: Giải thưởng Đào Tấn do Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc trao tặng.

2011: Giải thưởng Phan Châu Trinh về nghiên cứu.

 

PV