Tranh chấp từ hợp đồng ghi không đúng giá trị thực

Cập nhật, 05:42, Thứ Ba, 30/05/2023 (GMT+7)

(VLO) Đôi bên thỏa thuận chuyển nhượng nhà đất giá 68 tỷ đồng, sau đó còn 55 tỷ đồng nhưng khi công chứng hợp đồng chỉ ghi 40,5 tỷ đồng dẫn đến tranh chấp và kiện nhau ra tòa.

Bà Đ.T.M. (ở TP Vĩnh Long) và bà T.T.K.T. (ở TP Hồ Chí Minh) có mối quan hệ quen biết do làm ăn chung với nhau. Do bà M. nợ tiền ngân hàng không khả năng thanh toán nên đề nghị bà T. mua lại tài sản đang thế chấp là nhà đất thuộc thửa 151 do bà M. đứng tên.

Ngày 21/7/2020, bà M. và bà T. ký văn bản thỏa thuận chuyển nhượng nhà đất với giá 68 tỷ đồng nhưng hôm sau, hai bên lại thỏa thuận và lập hợp đồng chuyển nhượng với giá 55 tỷ đồng, khi ra công chứng thì ghi vào hợp đồng giá chỉ 40,5 tỷ đồng.

Bà M. cho rằng việc ghi số tiền thấp hơn giá thỏa thuận là để giảm thuế các bên phải đóng, thực chất nhà đất bà chuyển nhượng cho bà T. vẫn là 68 tỷ đồng.

Do sau khi ký hợp đồng ngày 22/7/2020, bà T. không thực hiện đúng cam kết, chỉ thanh toán 55 tỷ đồng, còn nợ 13 tỷ đồng không trả nên bà khởi kiện ra tòa yêu cầu vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng ngày 22/7/2020 và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) và nhà đã được bà T. đăng ký sang tên.

Tại đơn phản tố ngày 24/5/2021, bà T. thừa nhận có mua nhà đất của bà M. với giá thỏa thuận ban đầu là 68 tỷ đồng, hai bên có ký văn bản ngày 21/7/2020.

Nhưng vì không đủ tiền mua nên ngày 22/7/2020, bà và bà M. thỏa thuận lại giá 55 tỷ đồng và đôi bên đã giao nhận đủ tiền.

Bà T. khẳng định việc ký hợp đồng chuyển nhượng nói trên là hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật, được cơ quan có thẩm quyền chỉnh lý cho bà đứng tên trên giấy chứng nhận QSDĐ nên không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà M..

Ngoài ra, bà T. còn yêu cầu bà M. phải di dời tài sản, trả lại nhà đất và bồi thường thiệt hại hơn 12 tỷ đồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm, yêu cầu của bà M. và bà T. đều không được chấp nhận nên 2 bên cùng gửi đơn kháng cáo. Qua xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, HĐXX cấp phúc thẩm cho rằng: Ngày 21/7/2020, bà M. và bà T. ký văn bản thỏa thuận với nội dung chuyển nhượng nhà đất thửa 151 giá 68 tỷ đồng. Hôm sau, bà M. và bà T. ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất nói trên giá 55 tỷ đồng.

Cả 2 văn bản này đều không được cơ quan có thẩm quyền xác nhận hoặc công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, để có cơ sở thực hiện việc chuyển nhượng phù hợp quy định của pháp luật và nhằm giảm nghĩa vụ thuế của các bên, cùng ngày 22/7/2020, bà M. và bà T. đã công chứng hợp đồng chuyển nhượng với giá 40,5 tỷ đồng.

Xét việc chuyển nhượng giữa bà M. và bà T. là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên về giá thì bà M. cho rằng giá chuyển nhượng là 68 tỷ đồng, còn bà T. thì cho rằng việc thỏa thuận giá 68 tỷ đồng là có thật nhưng do bà không đủ tiền nên đã thỏa thuận lại giá 55 tỷ đồng.

Mặc dù việc thỏa thuận giá nói trên có lập thành văn bản nhưng chưa đúng quy định vì không được cơ quan có thẩm quyền xác nhận hay công chứng, chứng thực nên xảy ra tranh chấp.

Thời điểm bà M. chuyển nhượng nhà đất cho bà T. thì thửa đất 151 bị Nhà nước thu hồi làm bờ kè và được đền bù hơn 71,7 tỷ đồng.

Đây là giá đất thực tế chưa tính tài sản gắn liền trên đất nên việc bà M. xác định chuyển nhượng nhà đất thửa 151 cho bà T. giá 68 tỷ đồng là có căn cứ và phù hợp với thực tế tại địa phương.

Do đó, việc bà T. cho rằng nhận chuyển nhượng nhà đất của bà M. giá 55 tỷ đồng là không có căn cứ chấp nhận.

Sau khi lập hợp đồng chuyển nhượng ngày 22/7/2020, bà M. đã tự nguyện giao nhà đất cho bà T. quản lý sử dụng. Sau đó, bà T. có thỏa thuận cho bà M. gửi lại một số tài sản chứ không phải bà M. không giao nhà đất nên yêu cầu bà M. bồi thường thiệt hại hơn 12 tỷ đồng của bà T. là không có cơ sở.

Từ những nhận định nêu trên, HĐXX tuyên không chấp nhận yêu cầu vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng ngày 22/7/2020 giữa bà M. và bà T.; buộc bà M. di dời toàn bộ tài sản gửi tại 4 kho trên thửa đất 151 mà bà T. đang đứng tên.

Không chấp nhận yêu cầu đòi bà M. bồi thường thiệt hại hơn 12 tỷ đồng của bà T., đồng thời buộc bà T. trả tiếp cho bà M. 13 tỷ đồng do còn lại nhà đất chuyển nhượng giá 68 tỷ đồng nhưng bà T. chỉ mới thanh toán 55 tỷ đồng.

DIỄM PHƯỢNG

 

Các tin khác: