Trường dạy và nhà thờ tổ ngành tuồng cả nước

Cập nhật, 05:58, Thứ Ba, 21/09/2021 (GMT+7)

 

NSƯT Ngọc Khanh (Trưởng Đoàn hát bội- cải lương tuồng cổ Ngọc Khanh, giữa) trong một lần đến Huế biểu diễn tuồng.
NSƯT Ngọc Khanh (Trưởng Đoàn hát bội- cải lương tuồng cổ Ngọc Khanh, giữa) trong một lần đến Huế biểu diễn tuồng.

(VLO) Thanh Bình thự là trường dạy nghệ sĩ hát tuồng (hát bội, hát bộ) quy mô đầu tiên cả nước được xây dựng dưới thời nhà Nguyễn. Nơi đây còn có nhà thờ tổ ngành tuồng lớn nhất trên cả nước.

Trường dạy tuồng của cả nước

Khán giả thích xem tuồng vì loại hình nghệ thuật này có chức năng phân biệt phải trái, tốt xấu. Chẳng hạn, kiểu cách đi đứng trong tuồng dùng để biểu lộ cái “tâm” của nhân vật thiện, ác. Như lên ngựa xuống ngựa đều phân biệt kiểu cách trung tướng khác kiểu cách dạng nịnh thần.

Ngoài ra, các diễn viên tuồng phân biệt từ mặt mũi, râu tóc, áo quần để rõ ai là trung nịnh, sang hèn như về màu sắc thì sắc đỏ được dùng dặm mặt để biểu hiện vai trung thần; màu xám là nịnh thần; màu đen là người chân thật...

Về tên gọi, ở miền Trung nước ta trở ra gọi tuồng. Cách gọi này là vì loại hình nghệ thuật xướng ca này có cách hát kéo dài liên tiếp, có khởi đầu, có hồi kết, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn.

Do đó, nó được giới nho sinh Hán học gọi là “liên trường” (kéo dài liên tiếp) nhưng do ngôn ngữ bình dân của người địa phương mà thành “luông tuồng”, “luôn tuồng” và gọi tắt là “tuồng”.

Còn ở miền Nam gọi là “hát bội” bởi trong nghệ thuật hóa trang, đào kép phải đeo, phải giắt (bội) những cờ phướn, lông công, lông trĩ... lên người. Đó là do chữ bội (chữ Hán) có nghĩa là mang, đeo, giắt các đồ trang sức trên người.

Còn cách gọi khác là “hát bộ” vì diễn xuất của nghệ sĩ đều phải phân đúng từng bộ diễn. Tác giả Vũ Đức Sao Biển trong bài “Hát bội Quảng Nam” in trong cuốn “Quảng Nam hay cãi” (NXB. Trẻ, 2010) đã dẫn lời nhà nghiên cứu Vũ Khắc Khoan, cho rằng cả 2 tên gọi “hát bội”, “hát bộ” đều đúng.

Sử sách ghi chép tuồng hình thành từ Bình Định rồi lan đến Phú Xuân (Huế) ở Đàng Trong, ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống cung đình Huế.

Dưới thời Nguyễn Phúc Chu đã có đoàn vũ nữ ngoài hát múa, còn diễn tuồng. Dưới thời Nguyễn Phúc Khoát, chúa cho xây dựng nhiều cung điện nguy nga, trong đó có hiên Đồng Lạc là nơi để trình diễn tuồng, lại sai người tập trung nghệ sĩ tuồng ở triều đình, chú tâm xây dựng đội tuồng ở hoàng cung.

Nhà nghiên cứu Tôn Thất Bình trong cuốn sách “Tuồng Huế”, có nhắc đến một tài liệu tranh của J.Barrow in tại Luân Đôn năm 1806, cho biết cảnh diễn tuồng cuối thế kỷ XVIII ở Đàng Trong, mô tả cảnh hát tuồng thiết triều, rất đông khán giả đứng xem.

Đến đời nhà Nguyễn, dưới thời vua Gia Long, triều đình đã tổ chức Việt Tường đội đào tạo diễn viên tuồng. Đến triều Minh Mạng thì tuồng được hết sức quan tâm.

Thanh Bình thự- trường dạy diễn viên tuồng quy mô đầu tiên cả nước được thành lập năm 1825 và Duyệt Thị đường- sân khấu tuồng hoàng cung được xây dựng năm 1826.

Dưới triều Tự Đức, tuồng phát triển rực rỡ, vua cho xây thêm nhà hát Minh Khiêm đường (tại Khiêm cung) năm 1864, lại thành lập Ban Hiệu thư chuyên sáng tác, chỉnh lý, hiệu đính các vở tuồng với sự điều khiển của chính vua Tự Đức.

Đào Tấn được vua tín nhiệm, sung vào Ban Hiệu thư lúc còn trẻ, đã sáng tác nhiều vở tuồng trong giai đoạn này. Vua Tự Đức còn tập hợp những nghệ nhân xuất sắc ở các làng, các tỉnh về kinh đến 300 người.

Thời kỳ này sân khấu tuồng đạt tới đỉnh cao. Không chỉ vua, các thân vương, quan lại cũng rất mê tuồng. Nhiều phủ có những đoàn hát bội riêng như các đoàn của Hải Ninh Quận công, bà Chúa Nhất, ông Hoàng Chín, bà Chúa Tám, bà Từ Cung,…

Các rạp tuồng cũng được dựng lên như rạp của phủ Định Viễn Quận công (con vua Gia Long) và các rạp của Diên Khánh vương, Tuyên Hóa Công, Đào Tấn,…

Nhà thờ tổ ngành tuồng lớn nhất

Thanh Bình thự được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 6 (1825), dùng làm nơi luyện tập cho những nghệ nhân thuộc đội tuồng Việt Tường trong cung cấm.

Các sân dài và rộng trước Thanh Bình thự là sân khấu Thanh Bình. Sân khấu này lúc đầu chỉ để diễn tập tuồng.

Dần dần về sau theo yêu cầu của quần chúng, sân khấu là nơi biểu diễn phục vụ rộng rãi người xem của kinh thành Huế. Khi nhà Nguyễn cáo chung vào năm 1945, các nghệ sĩ tuồng từ Huế tỏa đi khắp nước để tìm kế mưu sinh và để giữ nghề.

Hiện nay, Thanh Bình thự chính là Thanh Bình từ đường cùng khuôn viên xung quanh (năm trong kiệt 281 Chi Lăng, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên- Huế).

Chính giữa ngôi từ đường là bàn thờ các vị tổ ngành xướng ca của cả nước. Tại đây có bài vị Càn Cương Hầu, được tôn xưng là ông tổ ngành tuồng và hậu tổ tuồng là cụ Đào Tấn.

Bên ngoài còn có 2 án thờ ở 2 bên tả, hữu (trái, phải). Trong đó, án bên tả thờ các nghệ nhân quá cố như Đào Duy Từ, người có công lớn trong việc phát triển nghệ thuật tuồng nước nhà.

Thanh Bình từ đường được công nhận Di tích Văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 776-QÐ/VH ngày 23/6/1992 của Bộ Văn hóa- Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) như sự tri ân đối với nghệ thuật sân khấu.

Hiện nay, ngay gian giữa của từ đường vẫn còn tấm hoành phi làm năm Tự Đức thứ 6 (1853) được khắc 4 chữ Hán kiểu đại tự: “Thanh Bình từ đường”.

Nói về sân khấu loại hình nghệ thuật truyền thống này, NSƯT Ngọc Khanh (Trưởng Đoàn hát bội- cải lương tuồng cổ Ngọc Khanh) từng chia sẻ: “Sân khấu hát bội đầy tính nhân văn, phản ánh rất rõ những tích cực và tiêu cực của xã hội qua mỗi thời đại, mỗi thời kỳ lịch sử, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín mà đặc biệt là chuyên chở những tâm tư ước vọng của nhân dân ta.

Vì vậy, nghệ thuật hát bội đã đi sâu vào trong lòng mỗi người dân Việt Nam, là một trong những nền tảng quý báu của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc…

Dưới sự hội nhập văn hóa thế giới, mỗi thời đại đều có những loại hình văn hóa mới xuất hiện và cái cũ thường rơi vào quên lãng. Trên thực tế, loại hình nghệ thuật hát bội cũng rơi vào tình trạng ấy. Đó là điều mà chúng tôi cứ đau đáu trong lòng khi sàn diễn hát bội cứ bị thu hẹp dần”.

Huế, ngày 18/9/2021

Bài, ảnh: NGUYỄN VĂN TOÀN