Hạn- mặn tạm đi qua, nỗi lo còn để lại...

Cập nhật, 04:54, Thứ Ba, 07/07/2020 (GMT+7)
Người dân ở xã Đồng Phú (Long Hồ) được hỗ trợ nước sạch thông qua hệ thống lọc nước mặn thành nước ngọt.
Người dân ở xã Đồng Phú (Long Hồ) được hỗ trợ nước sạch thông qua hệ thống lọc nước mặn thành nước ngọt.

Hạn, mặn mùa khô năm 2019- 2020 xuất hiện sớm, độ mặn lên cao mức lịch sử mới, xâm nhập sâu, kéo dài và diện ảnh hưởng rộng… và lần thứ 2 Vĩnh Long công bố thiên tai do hạn mặn. Hiện, tỉnh gặp không ít khó khăn trong hỗ trợ các địa phương ứng phó hiệu quả với loại hình thiên tai này.

Khác với mùa khô năm 2015- 2016, năm 2019- 2020, ĐBSCL không bị ảnh hưởng của hiện tượng El Nino, nhưng do lượng nước chảy và lượng mưa trong mùa khô về đồng bằng thiếu hụt nhiều so với mọi năm và tác động mạnh của triều biển Đông nên mặn xuất hiện sớm, xâm nhập sâu và độ mặn lên cao mức lịch sử ở các tháng đầu mùa khô và kéo dài đến tận tháng 3, tháng 4, đầu tháng 5.

Theo ông Lưu Nhuận- Chi cục Trưởng Chi cục Thủy lợi, Chánh Văn phòng Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh, từ tháng 12/2019 đến giữa tháng 4/2020, ranh giới độ mặn 4‰ xâm nhập vào sâu tới hơn 50km tính từ cửa sông.

Tỉnh Vĩnh Long đã xảy ra thiên tai xâm nhập mặn với cấp rủi ro thiên tai cấp độ 2. Nếu như năm 2016 chỉ có 3 huyện bị ảnh hưởng (Vũng Liêm, Trà Ôn, Mang Thít), thì năm 2020 số huyện bị ảnh hưởng biên mặn từ 1- 10‰ là 6 huyện- thị (chỉ trừ huyện Bình Tân và TP Vĩnh Long).

Số liệu tổng hợp từ Văn phòng thường trực Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh hạn, mặn thời gian qua đã làm cho trên 1.985ha cây trồng (lúa, màu, cây ăn trái) trong toàn tỉnh bị nhiễm mặn, tập trung ở 3 huyện Vũng Liêm, Mang Thít và Long Hồ, ước thiệt hại trên 142 tỷ đồng.

Trong đó, huyện Long Hồ bị nặng nhất trên 106 tỷ đồng, kế đến là Vũng Liêm gần 36 tỷ đồng. Bên cạnh đó, toàn tỉnh có 17.479ha cây trồng bị thiếu nước tưới trong thời gian khoảng 5- 7 ngày do đóng cống ngăn mặn lên cao vào các kỳ triều cao và do mực nước thấp không tưới tự chảy và do kinh, rạch không trữ đủ nước tưới, tập trung ở huyện Vũng Liêm, Trà Ôn, Tam Bình, Mang Thít và TX Bình Minh. 

Tuy nhiên, sau khi độ mặn giảm, cống ngăn mặn được mở lấy nước, diện tích cây trồng bị thiếu nước trên được tưới trở lại nên thiệt hại không đáng kể.

Tỉnh Vĩnh Long đã kiến nghị Trung ương điều chỉnh, bổ sung kịch bản biến đổi khí hậu của ĐBSCL và của cả nước do các yếu tố khí tượng, thủy văn, thiên tai những năm gần đây có sự thay đổi bất thường có tính liên tục. Riêng về dự báo xâm nhập mặn vùng ĐBSCL, hiện chỉ dự báo ranh giới mặn 4‰. Do đó, trong thời gian tới, tỉnh đề nghị Trung ương chỉ đạo dự báo thêm ranh giới mặn 0,5‰ và 1‰, vì ở mức mặn này đã ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt.

Ngoài ra, do độ mặn lên cao, kéo dài nhiều tháng nên việc khai thác nguồn nước mặt để cấp cho sinh hoạt và sản xuất ở nhiều nơi trong tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, nhất là tại các huyện bị nhiễm mặn cao như Vũng Liêm, Trà Ôn, Mang Thít, Long Hồ, đặc biệt là tại các xã ở cù lao Dài, cù lao Minh và cù lao Mây. 

Tổng số hộ bị thiếu nước sinh hoạt thời điểm cao nhất lên đến 26.289 hộ; trong đó số hộ chưa có nước máy sử dụng là 17.327 hộ cũng bị thiếu nước hoặc sử dụng nước bị nhiễm mặn.

Toàn tỉnh có 51 trạm cấp nước sạch khai thác nước mặt ở các huyện bị nhiễm mặn như: Vũng Liêm, Mang Thít, Trà Ôn, Tam Bình, Long Hồ và TX Bình Minh với 89.743 hộ thường sử dụng nguồn nước bị nhiễm mặn trong thời gian độ mặn sông, rạch lên cao. Khi triều xuống, độ mặn sông, rạch giảm, các trạm cấp nước mới có thể lấy được nước ngọt.

Để thiết thực ứng phó với hạn, mặn, đầu mùa khô 2019- 2020, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch và phương án ứng phó hạn, xâm nhập mặn, thiếu nước có thể xảy ra ở mức “rất nghiêm trọng” cũng như ban hành các chính sách hỗ trợ cho nhân dân vùng bị hạn, mặn.

Bên cạnh đó, tỉnh điều chỉnh thời vụ vụ Đông Xuân 2019- 2020 và Hè Thu xuống giống sớm hơn để né mặn và hạn, khuyến khích sử dụng các giống chịu mặn trung bình đến khá (từ 2- 3‰).

Đồng thời, ngành nông nghiệp đã tổ chức nhiều cuộc tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật canh tác lúa và cây ăn trái trong điều kiện hạn mặn, quy trình trữ nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường nông thôn và các giải pháp kỹ thuật sản xuất, chăn nuôi trong điều kiện hạn, mặn.

Sầu riêng ở cù lao Dài (Vũng Liêm) chịu nhiều thiệt hại do hạn mặn.
Sầu riêng ở cù lao Dài (Vũng Liêm) chịu nhiều thiệt hại do hạn mặn.

Theo ông Nguyễn Văn Liêm- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp- PTNT, về giải pháp, bên cạnh việc rà soát lại quy hoạch tài nguyên nước, ngành nông nghiệp đề xuất giải pháp chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, đặc biệt là vụ Hè Thu. Tăng cường biện pháp trữ nước trong ao, hồ, kinh mương và áp dụng biện pháp tưới tiết kiệm nước đối với những nơi gặp khó khăn về nguồn nước tưới cho vụ rau màu Hè Thu và cây ăn trái.

Đối với giải pháp công trình, vận dụng những kinh, rạch ngoài vùng đê bao làm nơi trữ nước ngọt, tăng thêm diện trữ nước ngọt bằng các kinh, rạch trong vùng đê bao, phát động trong nhân dân thực hiện ngay các biện pháp thủ công sử dụng tích nước bằng lu, bể, ao chứa, thực hiện tiết kiệm nước ngọt trong sản xuất và sinh hoạt.

Rà soát, đề xuất thêm các công trình thủy lợi ngăn mặn, trữ ngọt ở vùng Bắc sông Măng Thít, ở vùng cù lao Minh (gồm 3 xã huyện Long Hồ) và cả vùng Bắc QL1…

Về nước sinh hoạt, hỗ trợ cho hộ dân nghèo, hộ khó khăn, các cơ sở công cộng như trạm y tế, bệnh viện, trường học,… các dụng cụ chứa nước cỡ lớn tiếp tục duy trì thực hiện trong những năm tới. Quy hoạch xây dựng hệ thống cấp nước sạch liên vùng để chuyển tải nước từ vùng ngọt sang vùng mặn để đối phó hạn mặn dài ngày.

Ở những nơi nguồn nước mặt khó khăn, mặn lên cao, nhất là các cù lao, cồn trên các sông lớn cần xem xét khoan thêm một số giếng khoan khai thác nước ngầm tầng sâu để phòng khi mặn kéo dài và lắp các trạm lọc nước mặn thành nước ngọt để cấp miễn phí cho người dân.

Trên 21 tỷ đồng hỗ trợ thiệt hại do ảnh hưởng hạn, mặn

Kinh phí trên từ nguồn ngân sách dự phòng của tỉnh và nguồn xã hội hóa do chính quyền, đoàn thể các cấp cùng với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đã chung tay vận động, hỗ trợ địa phương bị ảnh hưởng do hạn, mặn. Cụ thể gồm 22 công trình thủy lợi, 3.227 bồn, thùng, túi chứa nước, 5 máy lọc nước mặn thành nước ngọt, 1 hệ thống đường ống cấp nước sinh hoạt và 1 máy đo mặn tự động.

 

Bài, ảnh: THÀNH LONG