Những vần thơ cách mạng

Cập nhật, 09:15, Thứ Bảy, 09/10/2021 (GMT+7)

 

  Đồng chí Lê Đức Thọ. Ảnh tư liệu
Đồng chí Lê Đức Thọ. Ảnh tư liệu

Trong quá trình hoạt động cách mạng qua các thời kỳ với nhiều cương vị công tác và nhiều địa bàn hoạt động khác nhau, đồng chí Lê Đức Thọ luôn là một nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm, có tài năng về nhiều mặt và nổi bật trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao. Ông còn là một nhà thơ đầy tâm huyết. Thơ ông nặng tình về đất nước, về chiến trường và về những người chiến sĩ.

NGUYỄN VĂN THANH

Đồng chí Lê Đức Thọ bắt đầu sáng tác từ thời kỳ đầu tham gia hoạt động cách mạng. Thơ đã đăng trên các báo trong nhà tù, trên các báo chí bí mật của Đảng. Những tập thơ đã xuất bản: “Trên những nẻo đường” (1968), “Đường ngàn dặm” (1977), “Nhật ký đường ra tiền tuyến” (1978), “Thơ tuyển Lê Đức Thọ” (1983), “Gửi anh bộ đội” (1984). Ngoài ra, thơ Lê Đức Thọ có mặt trong nhiều tập thơ, tuyển thơ Việt Nam hiện đại.

“Trên những nẻo đường” và “Nhật ký đường ra tiền tuyến”- Lê Đức Thọ viết không nhiều nhưng “chưa bao giờ đứt đoạn với thơ”. Duyên thơ vẫn bền, vẫn thắm trong giờ gian truân, hiểm nghèo của cảnh lao tù: “Thời gian qua lớp sống cồn/ Mực chưa cạn hết những nguồn thơ hay/ Đời chưa hết kiếp đọa đày/ Tơ lòng giăng mắc biết ngày nào thôi”.

Trong quá trình hoạt động cách mạng từ năm 1936- 1945, mặc dù nhiều lần bị thực dân Pháp bắt giam nhưng đồng chí Lê Đức Thọ luôn giữ vững lý tưởng, ý chí kiên cường của người cộng sản. Những vần thơ Lê Đức Thọ đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt vào tương lai đang đến rất gần với dân tộc ta, như trong bài Ý xuân:“Những ngày tươi sáng không xa nữa/ Xuân mới đương về khắp thế gian”. Mùa xuân cũng đã trở thành biểu tượng của niềm tin, ước hẹn:“Mai hẹn xuân về mai lại nở/ Khách còn hẹn trước với chông gai” (Rừng mai). Mùa xuân cũng lóe ánh sáng lên từ lòng người, thổi ngọn lửa tin yêu hy vọng vào những mùa xuân cách mạng đang tới: “Xuân ở lòng ta đã khác rồi/ Bao nhiêu mơ mộng bạn đời ơi” (Lòng xuân chiến sĩ).

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, trên hành trình công tác từ Bắc vào Nam, đồng chí đã đi qua nhiều chiến trường, có nhiều cuộc gặp gỡ cảm động. Chân dung bà mẹ kháng chiến tuổi cao nơi chiếc lều hẹp quán nước bên đường được Lê Đức Thọ phác họa lại bằng những dòng thơ ấm áp nghĩa nước tình dân: “Đâu biết ngày nào mong gặp lại/ Miếng trầu bát nước tiễn đưa con/ Tuổi già vui với gian lều hẹp/ Một chút lòng thành gửi nước non” (Người mẹ). Rồi một em liên lạc hồn nhiên dũng cảm của vùng chiến khu U Bò- Ba Rền phía Tây Bố Trạch (Quảng Bình): “Nhìn em đôi mắt long lanh/ Căm hờn đã bén tuổi xanh những ngày/ Em ngồi gần nữa lại đây/  Cho bừng lửa hận cho say đôi lòng…” (Em bé liên lạc).

Miền Nam- nửa đất nước còn trong cơn đau khổ luôn da diết trong tâm trí của đồng chí. Nỗi nhớ thương ấy biến thành sức mạnh cụ thể, và nhấn mạnh một lời hẹn ước: “Tôi sẽ về Nam/ Giữa một mùa xuân thắm”.

Mùa xuân 1975, lời hẹn ước ấy đã trở thành sự thật. Cuộc hành trình Bắc Nam lần thứ hai này đem đến nhiều cảm hứng cho thơ ông. Khi qua Đèo Ngang- nơi địa danh và phong cảnh thiên nhiên nhiều chất thơ này khiến ông không khỏi xúc động. Bài thơ “Qua đèo Ngang” họa vần lại bài thơ của Bà huyện Thanh Quan gợi lại một kỷ niệm bên cạnh một trách nhiệm của cuộc đời hiện tại: “Quân vượt Đèo Ngang quyết diệt tà/ Chiến công nối tiếp nở như hoa/ Bom rơi chật đất thù muôn thuở/ Máu đổ tràn sông hận mỗi nhà/ Đã quyết hy sinh cho đất nước/ Quản gì nát thịt với tan da/ Ngày vui thống nhất không xa nữa/ Nam Bắc sum vầy ta gặp ta”.

Chiều qua sông Nhật Lệ, trái tim nhà thơ xao động nỗi niềm nhớ mẹ Suốt- người mẹ đã bất chấp hiểm nguy hàng ngày chèo đò đưa bộ đội qua sông: “Đò xưa vắng bóng mẹ rồi/ Nhìn sông nhớ mẹ ngậm ngùi xót xa/ Quân thù đã giết mẹ ta/ Một đêm mưa gió máu hòa dòng sông/ Mẹ về với những chiến công/ Ghi trang sử đẹp anh hùng Bảo Ninh” (Nhớ mẹ).

Đêm nằm nghe tiếng mưa rơi giữa rừng Lộc Ninh trên con đường tiến về giải phóng Sài Gòn, lòng nhà cách mạng bồn chồn vì thương bộ đội, vì mong những chuyến tăng, chuyến pháo đang trên đường tiến vào trận đánh lịch sử: “Nghe chim tu hú gọi/ Rừng Lộc Ninh sáng rồi/ Suốt đêm qua không ngủ/ Nằm đếm tiếng mưa rơi/ Lo cho anh bộ đội/ Lầy lội quãng đường dài/… Đừng mưa nữa mưa ơi/ Để đường mau khô ráo” (Mưa rơi).

Đồng chí Lê Đức Thọ đã có mặt trên biên giới Tây Nam năm 1979, cùng giúp đất nước anh em chống bọn phản động diệt chủng Pol Pot- Ieng Sary. Ở nơi đây, đồng chí đã gặp gỡ những người dân Campuchia bên dòng sông Sở Thượng. Sự giúp đỡ chí tình, mối cảm thông thầm lặng mà sâu sắc đã được ông ghi lại trong những câu thơ đầy xúc động: “Anh đem gạo củi/ Để thổi bửa cơm chiều/ Lửa hồng trong bếp đang reo/ Lòng tôi như cả một triều sóng dâng/… Hai bàn tay siết chặt/ Thầm lặng hiểu nhau rồi”.

“Nhật ký đường ra tiền tuyến” của Lê Đức Thọ có lẽ là chùm thơ có tại mặt trận sớm nhất, bắt được nhanh nhất những hình ảnh, những cảm xúc mỗi ngày, thậm chí mỗi giờ phút lịch sử này. Đèo Ngang 9/2, Nhật Lệ 10/2, Tây Nguyên 5/4 đến Tân Sơn Nhất 2/5… Những địa danh, ngày tháng ghi cuối mỗi bài thơ nói rất nhiều về cảm xúc tràn đầy của nhà cách mạng suốt dọc hành trình và trên mỗi mảnh đất.

Và rồi, Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 toàn thắng. Tiếng thơ dâng trào reo vui: “Cờ đỏ thắm trên Dinh Độc lập/ Quần chúng reo hò, niềm vui tràn ngập…/ Ôi những phút giây mừng đến rơi nước mắt/ Suốt đời người chỉ có hôm nay” !

Đồng chí Lê Đức Thọ.
Đồng chí Lê Đức Thọ.

 

 

Đồng chí Lê Đức Thọ tên chính là Phan Đình Khải, SN 10/10/1911 tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc (nay là xã Nam Vân- TP Nam Định) tỉnh Nam Định.

Đồng chí hoạt động cách mạng từ năm 1926. Đến tháng 10/1929, được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng.

Tháng 11/1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án 10 năm khổ sai và bị đày đi nhà tù Côn Đảo, làm Bí thư chi bộ và Thường vụ Chi ủy nhà tù.

Năm 1948, đồng chí thay mặt Trung ương Đảng tham gia đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ vào miền Nam công tác. Năm 1949, đồng chí được chỉ định làm Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Năm 1951, tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu vào BCH và được giao làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Từ năm 1949- 1954, làm Trưởng BTC Trung ương Cục miền Nam.

Tháng 5/1968, được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ phụ trách công tác đấu tranh ngoại giao, làm cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam DCCH tại Hội nghị Paris. Sau Hiệp định Paris và Việt Nam (năm 1973), được cử làm Trưởng ban miền Nam của Trung ương. Năm 1975, được Bộ Chính trị cử vào miền Nam chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tháng 12/1976, tại Đại hội lần thứ IV của Đảng, được bầu vào BCH Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, làm Trưởng BTC Trung ương Đảng.

Sau giải phóng miền Nam (30/4/1975) đồng chí làm Phó Ban đại diện Đảng và Chính phủ ở miền Nam.

Năm 1977 đến tháng 1/1979 được Bộ Chính trị phân công phụ trách công tác đặc biệt. Năm 1980, được cử làm Bí thư thường trực, phụ trách công tác tổ chức; tháng 10/1980 kiêm chức Hiệu trưởng Trường Chính trị đặc biệt.

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982), đồng chí được bầu lại vào BCH Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, làm Bí thư thường trực, phụ trách công tác tư tưởng nội chính, ngoại giao. Năm 1983 được chỉ định làm Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng. Năm 1986, làm Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội lần thứ VI của Đảng.

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), được Đại hội cử làm Cố vấn của BCH Trung ương.

Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Thọ đã đem hết tâm sức, khả năng, trí tuệ phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng; là một nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm, có tài năng về nhiều mặt và nổi bật trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao. Đồng chí thường được Đảng, Bác Hồ giao những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, điều đến những nơi, những lúc và ở những khâu công tác có tính quyết định của cách mạng.

Đồng chí Lê Đức Thọ là một trong những đồng chí lãnh đạo chủ yếu của cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, người có công lao lớn trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng chí có những đóng góp quan trọng trong công tác tổ chức xây dựng Đảng, thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Đồng chí Lê Đức Thọ là tấm gương sáng ngời về lòng trung thành tận tụy với Tổ quốc, với Đảng và Nhân dân, là một trong những người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

NGUYỄN VĂN THANH