Câu chuyện pháp luật

Chuyển nhượng tài sản để... vay tiền

Cập nhật, 07:17, Thứ Năm, 25/12/2014 (GMT+7)

Thế chấp tài sản để vay tiền nhưng 2 bên không lập hợp đồng vay mà ghi chuyển nhượng dẫn đến tranh chấp phải nhờ tòa phân xử.

Trong đơn khởi kiện gửi TAND TP Vĩnh Long, ông N.M.N. (ngụ đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, Phường 21, quận Bình Thạnh- TP Hồ Chí Minh) trình bày:

Ngày 10/1/2013, ông P.M.T. (ngụ đường Nguyễn Văn Lâu, Phường 8- TP Vĩnh Long) có ký hợp đồng chuyển nhượng 151,5m2 đất ở và 946,2m2 đất trồng cây lâu năm tọa lạc tại Khóm 1 (Phường 8) cho ông N. với giá 350 triệu đồng. Trong đó, giá trị đất là 250 triệu đồng và nhà gắn liền với đất là 100 triệu đồng.

Lúc giao dịch, ông T. đưa ra giấy ủy quyền của vợ là bà L.T.T.L. đồng ý việc chuyển nhượng tài sản, có đóng dấu xác nhận của UBND Phường 8. Quá trình ông N. làm thủ tục sang tên cũng không có ai tranh chấp.
 
Nhưng khi ông N. yêu cầu ông T. giao nhà và đất thì ông T. lánh mặt, còn bà L. cho rằng đây là tài sản chung, ông T. giả chữ ký của bà làm giấy ủy quyền và thực hiện việc chuyển nhượng nên không đồng ý giao nhà và đất.

Do đó, ông N. yêu cầu ông T. phải giao tài sản, không đồng ý hỗ trợ chi phí di dời và không cho ông T. lưu cư trong thời gian tìm chỗ ở mới.

Được triệu tập đến tòa với tư cách bị đơn, vợ chồng ông T. khẳng định “không bán nhà và đất”. Do lúc đó kẹt vốn làm ăn nên ông T. có nhờ chị H.T.C. (ở Phường 4) cầm nhà và đất để vay tiền nhưng chị C. từ chối và giới thiệu cho ông N. nhận cầm.

Khi biết giấy tờ nhà, đất ông T. đang thế chấp ở ngân hàng, ông N. yêu cầu ông T. không làm hợp đồng vay mà ghi chuyển nhượng để đảm bảo số nợ vay 350 triệu đồng. Lúc giao tiền, ông N. trừ lại 2 triệu đồng “công lấy sổ đỏ từ ngân hàng ra”, 35 triệu đồng tiền “giấy mực” và 17,5 triệu đồng tiền lãi tháng đầu nên ông T. chỉ nhận 295,5 triệu đồng.
 
Vì thế, ông T. yêu cầu tòa tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) ngày 10/1/2013 và chỉ đồng ý trả số tiền vay cùng lãi suất theo quy định của pháp luật.

Qua xác minh, thu thập chứng cứ và kết quả thẩm tra tại tòa, HĐXX nhận thấy: Ông T. không thừa nhận chuyển nhượng QSDĐ nhưng không có văn bản thể hiện cầm cố và cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình nên không có cơ sở xem xét giao dịch giữa ông T. và ông N. là cầm cố QSDĐ.

Tuy nhiên, do phần đất ông N. nhận chuyển nhượng có 2 căn nhà cấp 4 gồm, một căn nhà có số thuộc quyền sử dụng của cha ông T. và một nhà không số thuộc quyền sử dụng của ông T. và bà L. Trong 2 căn nhà này, có 5 nhân khẩu đang sinh sống và cha ông T. làm chủ hộ.
 
Việc ông T. chuyển nhượng QSDĐ, các thành viên trong gia đình không biết và cũng không đồng ý. Quá trình giải quyết vụ án, ông N. không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh các thành viên trong gia đình ông T. đồng ý bán 2 căn nhà gắn liền với đất.

Vì vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn là có cơ sở chấp nhận và hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 10/1/2013 giữa ông T. với ông N. cần được vô hiệu. Theo đó, HĐXX của TAND TP Vĩnh Long đã tuyên án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N.M.N. và tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 10/1/2013; buộc vợ chồng ông T. liên đới hoàn trả cho ông N. số tiền 350 triệu đồng.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, lỗi dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu là do ông N. biết trên đất nhận chuyển nhượng có nhà ở và nhiều người đang sinh sống, chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sở hữu nên quyền sử dụng không hẳn thuộc về ông T.

Do đó, việc chuyển nhượng sẽ ảnh hưởng đến nơi cư trú của nhiều người nhưng ông N. vẫn thực hiện nên có lỗi 50%.

Ông T. khi chuyển nhượng QSDĐ gắn với nhà ở là nơi sinh sống của nhiều thành viên trong gia đình nhưng không thông báo và cũng không được họ đồng ý nên cũng có lỗi 50%. Do đó, mỗi bên chịu trách nhiệm 1/2 giá trị thiệt hại đối với khoản tiền chênh lệch giá trong hợp đồng so giá thị trường tại thời điểm xét xử (mỗi bên trên 170 triệu đồng).

Như vậy, ông T. phải trả cho ông N. tổng cộng trên 520 triệu đồng và phải đóng hơn 24,8 triệu đồng tiền án phí. Riêng ông N., sau khi nhận đủ số tiền trên có trách nhiệm giao lại giấy chứng nhận QSDĐ để ông T. liên hệ cơ quan chức năng đăng ký cấp lại quyền sử dụng theo quy định của pháp luật.

DIỄM PHƯỢNG