Truyện ngắn: Nhớ người đồng đội

Cập nhật, 07:47, Chủ Nhật, 30/08/2020 (GMT+7)
Tranh minh họa: TRẦN THẮNG
Tranh minh họa: TRẦN THẮNG

Hôm ấy, mặt trời vừa lên khỏi bờ tre, tiết trời còn se lạnh, tôi đang trầm mặc trước 2 ngôi mộ nằm cạnh bụi hoa lài thơm phức, bỗng có bàn tay ai đó đặt nhẹ lên vai tôi:

- Anh Thành tới hồi nào vậy?

Tôi vội ngước lên, thấy anh Bảy Si- anh trai của Liễu- nên tôi giật mình. Chúng tôi nhìn nhau trong ánh mắt nghẹn ngào. Sau một hồi thầm thì trước mộ, anh Bảy kéo tôi đến chiếc băng đá dưới gốc bằng lăng ngồi tâm sự. Nhìn bức ảnh của má trên mộ bia, tôi không sao quên được khuôn mặt già yêu thương và cái miệng nhai trầu bỏm bẻm của má năm xưa. Nhớ nhứt là mỗi lần tiễn anh em ra trận, má thường nhét vào túi mỗi đứa một điếu ruby kèm theo mấy lời dặn dò: “Tụi bây nhớ đánh nhanh về sớm nhe!”

Tôi buồn bã nhắc lại chuyện của một thời xa tít:

- Tôi còn sống sót đến hôm nay cũng là nhờ công ơn của má. Nếu như Tết Mậu Thân mà không có má và Liễu khiêng tôi về hầm bí mật băng bó và lo cho tôi từng vắt cơm, bát cháo thì tôi đâu còn sống sót đến ngày hôm nay…

Gặp anh Bảy Si, tôi lại chạnh nhớ về một thời xa lắc xa lơ. Lúc tôi mới chuyển đến, nhà anh đã là chỉ huy sở của Khu 9, ba má anh tức chú thím Hai Tứ đã nhận tôi làm con nuôi. Năm đó tôi vừa 20 tuổi. Còn Liễu, em của anh Bảy mới 17 tuổi, trông dáng nữ sinh thanh thoát vậy nhưng có vẻ gan lì, lúc nào cũng đòi theo bọn này làm liên lạc hoặc cấp cứu thương binh.

Chú Hai Tứ tuy là nông dân tay lấm chân bùn nhưng không nề gian khổ, tù đày, chết chóc. Chú đã tình nguyện vào đơn vị địa phương và động viên các con đi bộ đội. Hồi trẻ, chú đã từng quảy phảng, xách cù nèo ra đồng phát cỏ, suốt ngày hùng hục ngoài đồng, lúc khát bụm tay vốc nước uống nghe ừng ực, về nhà ăn cơm nguội, húp mắm kho nghe rồn rột mà vẫn mạnh như trâu. Bây giờ, chú và vợ con đã trở thành những chiến sĩ cách mạng, vinh dự lớn nhứt của gia đình chú là toàn bộ khu vườn và nhà cửa đã được Khu ủy chọn làm sở chỉ huy tiền phương đầu tiên.

Nhà má Hai nằm giữa một khu vườn trồng mận hồng đào. Thế nhưng, ngôi nhà đã nhiều lần bị bom phá sập, chỉ còn lại mái sau đủ che chiếc hầm nổi kiên cố nên má đã dựng tạm ngôi nhà nhỏ bên cạnh một bờ sông đủ để che nắng che mưa. Trong công tác, má Hai lúc nào cũng tỏ ra khôn khéo và đầy mưu trí, đặc biệt là tình cảm của má đối với các thương bịnh binh thật thắm thiết.

Sau Tết Mậu Thân, với âm mưu “tát nước bắt cá”, địch đã liên tiếp mở các cuộc tấn công vào khu căn cứ Vườn Mận bằng phi cơ và đạn pháo. Nhiều người sợ quá bỏ ra thành lánh nạn nhưng ai đi cứ đi, ai chạy cứ chạy, má vẫn bình chân như vại, quyết cùng chồng ở lại chiến đấu, nhưng cuối cùng ông đã anh dũng ngã xuống trong lúc đang làm nhiệm vụ.

Rồi sau đó, máy bay địch oanh kích bất thần, tôi và đồng đội không kịp xuống hầm nên một số đã bị thương nặng. Trước tình hình cấp bách đó, Liễu đã liều mình ra kéo tôi định đưa vào hầm trú ẩn để băng bó nhưng chưa kịp thì Liễu đã bị một mảnh đạn ghim trúng ngực làm Liễu ngất lịm trong lúc tay còn choàng lấy tôi. Khi mọi người ra bồng lên thì Liễu đã tắt thở. Với má, nước mắt tiễn đưa chồng chưa ráo nay lại nhận thêm hung tin nên lần này má bị ngất xỉu bên thi hài của đứa con yêu quý do mình rứt ruột đẻ ra.

Nhưng đau thương mất mát không làm má sờn lòng mà còn giúp má tăng thêm sức mạnh. Nhiều đêm khuya lơ khuya lắc mà má vẫn một mình bơi xuồng len lỏi dọc theo các dòng kinh, con rạch, áo quần ướt đẫm sương khuya để hoàn thành nhiệm vụ mà không một lời than thở. Càng đau xót bao nhiêu má càng xông xáo bấy nhiêu khiến cho mọi người nể phục.

Có một lần bộ đội đi ngang qua nhà má, má chặn đường hỏi:

- Mấy con đi đâu vậy?

- Đánh sân bay má ơi! Nếu thắng trận này má đãi tụi con gì đây?

- Cháo gà. Tụi bây hãy về sớm ăn cháo gà nhe!

***

Hôm đó, gió chiều như gợi cơn buồn, tôi và một số anh em sau một ngày chiến đấu vất vả bèn rủ nhau kéo đến nhà má hái mận ăn với nước mắm đường. Cái chòi lá của má nằm bên cạnh một con rạch, hai bên cây cối um tùm, trước nhà có những cây mận hồng đào trái chín đỏ rực, đong đưa lúc nào cũng như mời như gọi. Anh em kẻ nằm, người ngồi, vừa ăn vừa nghe chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam. Má đang nấu nướng dưới bếp, mùi cá bống kho tiêu mỡ hành bốc lên thơm phức.

Trời đã nhá nhem, má đốt cây đèn ống khói mang ra đặt giữa bộ ngựa.

- Hôm nay các con ở lại ăn cơm với má.

Mọi người đều nhảy xổm lên bộ ván ngựa ngồi chờ má mang đồ ăn ra…

***

Con rạch phía sau nhà lúc nước ròng để lộ những bãi bùn láng cót, một đám biệt kích chừng năm sáu thằng đang kéo hàng một lội qua, tay súng huồm huồm, mắt lăm lăm nhìn về phía ngọn đèn tù mù. Khi mọi người vừa cầm đũa, bỗng má đưa ngón tay ra lệnh “im”! Mọi người căng thẳng. Đúng là có tiếng lội bùn nghe óp ép, ột ệt giống như tiếng trâu nằm vũng. Linh tính báo cho má biết có chuyện gì không hay. Má liền bước lại gần vách cố nghe trong im ắng phập phồng có tiếng người lội mương, tiếp theo là tiếng lau sậy khua xào xào như tiếng heo luồn trong cỏ. Má hốt hoảng lấy tay vạch vách lá nhìn ra phía trái thì thấy địch đã lên tới bờ cách chòi chừng vài chục bước…

- Ai đó? Đứng lại! Má cố gắng thét thật to và ra lệnh cho anh em rút lui.

Bọn địch ra lệnh:

- Đứng im! Nếu không tôi sẽ bắn.

Má vẫn tiếp tục thét và cản đường không cho chúng rượt theo. Bọn quỷ sứ tức tối đã nhắm ngay má nã súng làm má khuỵu ngã.

Anh em phóng nhanh về phía sau vườn mận và chỉ kịp nghe giọng nói cuối cùng của má: “Rút nhanh, đừng lo cho má”.

Tôi và đồng đội vừa chạy vừa chống trả nhưng sợ bắn nhằm má nên ai nấy cũng thận trọng từng viên đạn. Má đã bị gãy chân ngay loạt đạn đầu nhưng một tay vẫn cố bấu víu vào cây cột, một tay lần tìm quả lựu đạn. Ngay lúc đó, một tên biệt kích đã nhào tới dí súng vào ngực má dọa:

- Việt cộng đâu? Hầm bí mật đâu? Ai cầm đầu? Bà hãy khai mau ra! Nếu không tôi sẽ kết liễu bà.

- Tao không biết hầm bí mật nào cả. Nếu có giỏi thì tụi bây cứ đi tìm. Tao có chết, các con tao cũng không tha cho tụi bây đâu.

Biết không khai thác được, chúng liền quay mũi súng bắn cả loạt đạn vào má và rút nhanh. Nhưng, chỉ một lát sau cả bọn đều đền tội…

***

Trong giây phút thiêng liêng của ngày hăm bảy tháng bảy, đứng bên mộ của những người thân yêu, tôi không muốn khóc nhưng mắt cứ trào ra. Bất giác tôi nhớ má, nhớ Liễu và nhớ anh em đồng đội vô vàn. Tôi bồi hồi bẻ một cành hoa mua màu tím rịm- loại hoa mà Liễu thường hay giắt trên đầu súng- cắm trước mộ Liễu.

Tôi đứng thật lâu như muốn nấp vào quá khứ một chút cho tâm hồn yên tĩnh nhưng càng muốn yên tôi lại càng thương nhớ nàng, thương nhớ chuyện một thời chiến đấu, nhớ cả cái dáng thon thả và giọng cười hiền dịu của nàng, một người con gái bình dị, tóc lúc nào cũng thơm mùi hương hoa cỏ dại, lúc nào cũng có một khoảng trời mơ ước và náo nức.

HOÀI PHƯƠNG