Trung Quốc vi phạm rõ ràng luật pháp quốc tế

Cập nhật, 09:08, Chủ Nhật, 27/07/2014 (GMT+7)

Tại cuộc Hội thảo quốc tế “Những khía cạnh pháp lý liên quan đến sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam”, khai mạc sáng nay (26-7) tại TP Hồ Chí Minh, hàng chục chuyên gia hàng đầu về luật quốc tế  trong và ngoài nước đã thảo luận về hành động sai trái của Trung Quốc và đưa ra nhiều lời khuyên đối với Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hòa bình…

Ông Phạm Quốc Anh, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo

Biển Đông chưa bình yên

Phát biểu đề dẫn Hội thảo, GS.TS Mai Hồng Quỳ, Hiệu trưởng trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh nêu rõ, Biển Đông là tuyến hàng hải quốc tế huyết mạch, có vị trí địa chính trị đặc biệt quan trọng không chỉ đối với Việt Nam, Trung Quốc, các quốc gia trong khu vực mà còn với tất cả các quốc gia trên thế giới.
 
Do vậy, duy trì môi trường ổn định, hợp tác và phát triển ở Biển Đông là bổn phận và trách nhiệm của các quốc gia và là yếu tố quan trọng để bảo đảm hoà bình, an ninh, tự do hàng hải, hàng không và thương mại quốc tế.
 
“Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm và yêu sách về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia trong khu vực còn nhiều khác biệt nên Biển Đông vẫn chưa được bình yên”, GS.TS Mai Hồng Quỳ nhấn mạnh.

Các học giả đã chỉ rõ việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng biển của Việt Nam là hoàn toàn sai trái, làm Biển Đông “dậy sóng”.

Luật gia Veeramalla Anjaiah, Phó Tổng biên tập tờ Jakarta Post, Indonesia khẳng định, việc triển khai một giàn khoan dầu khổng lồ  trong vùng biển của Việt Nam là một sự vi phạm rõ ràng luật pháp quốc tế và trái với Tuyên bố về cách ứng xử của các các bên ở Biển Đông (DOC). Chỉ rõ hơn sự vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc,

TS. Nguyễn Toàn Thắng đến từ Đại học Luật Hà Nội nhấn mạnh, Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực là vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật quốc tế.
 
Sự hiện diện hiện nay của Trung Quốc ở Hoàng Sa không làm phát sinh danh nghĩa chủ quyền đối với Trung Quốc.

Do vậy, việc Trung Quốc cho rằng, họ hạ đặt giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế của đảo Tri Tôn là hoàn toàn trái Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) vì đảo Tri Tôn không có quy chế của đảo theo Điều 121 của Công ước để được hưởng các vùng biển theo quy định của UNCLOS 1982 mà chỉ có một vùng biển tối đa là 12 hải lý.

Mặt khác, đảo Tri Tôn thuộc chủ quyền của Việt Nam. “Là thành viên của UNCLOS 1982, Trung Quốc có nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện các quy định của Công ước”, TS Nguyễn Toàn Thắng phát biểu.

Trong khi đó, GS Baladas Ghoshal, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Nam Á và Đông Nam Á, Đại học Jawaharlal Nehru, Ấn Độ nhận định, việc Trung Quốc rút giàn khoan và tàu hộ tống ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam có thể là một biểu hiện của sự thận trọng, là một động thái có toan tính để ngăn chặn Mỹ và các cường quốc khác hợp sức lại.

GS.TS Mai Hồng Quỳ phát biểu đề dẫn

 

ASEAN phát huy “quyền lực mềm”

Tại cuộc hội thảo, nhiều chuyên gia cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của ASEAN trong việc giải quyết hòa bình tranh chấp ở Biển Đông.

Theo GS Baladas Ghoshal, ASEAN đang ngày một đoàn kết hơn trong việc đối phó với Trung Quốc. Tiếng nói của ASEAN đã góp phần kiềm chế tham vọng của Trung Quốc, tuyệt nhiên không thể sử dụng và đe doạ sử dụng vũ lực.
 
Trong khi đó, Luật gia Veeramalla Anjaiah cho rằng, ASEAN cần nhanh chóng đoàn kết, thống nhất, đồng thuận để sớm cùng Trung Quốc ký COC. Đồng thời, ASEAN cần vận động sự ủng hộ ủa các quốc gia ngoài Hiệp hội như Mỹ, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a trong tiến trình giải quyết hoà bình các tranh chấp trên Biển Đông với Trung Quốc.

TS Nguyễn Hùng Sơn, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Biển Đông, Học viện Ngoại giao Việt Nam và GS Andrea Margelleti, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quốc tế, Italia cùng đưa ra nhận định rằng, với vai trò là tổ chức quốc tế liên chính phủ của khu vực, ASEAN phải là trung tâm điều phối và hoà giải các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên cũng như tranh chấp giữa các quốc gia thành viên với các quốc gia ngoài ASEAN trong đó có Trung Quốc.

Do vậy, ASEAN cần phát huy “quyền lực mềm” và khẩn trương cùng với Trung Quốc tiến tới ký kết COC- công cụ pháp lý khu vực quan trọng nhất để giải quyết hoà bình các tranh chấp  liên quan.

Để làm được điều này, ASEAN cần học tập kinh nghiệm của EU trong giải quyết tranh chấp để vận dụng vào việc xây dựng COC cũng như tiến hành thúc đẩy giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế.

Các đại biểu trao đổi tại Hội thảo

 

Cần tính tới sức mạnh tổng hợp của dư luận quốc tế

Việt Nam cần làm gì để bảo vệ chủ quyền một cách hòa bình là vấn đề được thảo luận sôi nổi tại Hội thảo.
 
TS Trần Phú Vinh, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh đã giới thiệu tổng thể các biện pháp giải quyết tranh chấp theo quy định của Hiến chương Liên Hợp quốc, theo đó Điều 33 của Hiến chương đã qui định các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình gồm các pháp chính trị ngoại giao và biện pháp pháp lý gồm: Đàm phán, điều tra, trung gian, hoà giải, trọng tài, Toà án và trước tổ chức quốc tế bằng các hiệp định khu vực.

TS Trần Phú Vinh cho rằng: “Các bên nên sử dụng biện pháp pháp lý để giải quyết hoà bình tranh chấp nếu các biện pháp ngoại giao đã áp dụng nhưng không đạt hiệu quả”. Liên hệ với vụ việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981, Việt Nam đã sử dụng các biện pháp ngoại giao nhưng Trung Quốc vẫn không đàm phán thiện chí với Việt Nam.

Do vậy, theo TS Trần Phú Vinh, Việt Nam có thể yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc hoặc yêu cầu Toà án Công lý quốc tế (ICJ) ra kết luận với câu hỏi, Trung Quốc đặt giàn khoan, sử dụng và đe doạ sử dụng vũ lực trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam có phù hợp luật quốc tế hay không? “Đây là một biện pháp nên được sử dụng”, TS Trần Phú Vinh nhấn mạnh.

Trong khi đó, GS Hikmahanto Juwana đến từ khoa Luật, Đại học Indonesia cho rằng, Việt Nam cần đánh giá đầy đủ các chứng cứ pháp lý của Việt Nam và của Trung Quốc để thấy được điểm mạnh điểm yếu về chứng cứ của hai bên. Ngoài ra, Việt Nam cần  tính tới sức mạnh tổng hợp của dư luận quốc tế trong việc ủng hộ các tuyên bố của Việt Nam.
 
“Trước hết, Việt Nam nên sử dụng các biện pháp chính trị-ngoại giao sau đó mới tính tới việc đưa ra Toà án Công lý quốc tế”,  GS Hikmahanto Juwana phát biểu.

Tại cuộc Hội thảo, GS.TS Makane Moise Mbengue đến từ khoa Luật Đại học Giơ-ne-vơ, Thuỵ Sĩ cũng đã trình bày về những thuận lợi và khó khăn trong việc đưa các vụ tranh chấp giữa các quốc gia ra trước Hội đồng Bảo an, Đại hội đồng Liên hợp quốc và Toà án Công lý quốc tế để Việt Nam có thể tham khảo.

 

Theo QĐND Online